Nhà Hán: là huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân Nhà Đông Ngô: tách ra khỏi quận Cửu Chân, đặt làm quận Cửu Đức Nhà Tấn, nhà Lưu Tống vẫn theo như nhà Ngô Nhà Lương (năm 502-557): Chia đặt làm Đức Châu, Lỵ Châu và Minh Châu Nhà Tùy: Năm Khai Hoàng thứ 18 (598) đổi Đức Châu làm Hoan Châu, Lỵ Châu làm Trí Châu. Năm Đại Nghiệp thứ 3 (607) hợp cả Minh Châu, Trí Châu và Hoan Châu, đổi lệ thuộc quận Nhật Nam.
Thời kỳ Bắc thuộc: Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 1, Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 2, và Hành chính Việt Nam thời Bắc thuộc lần 3.
Nhà Hán: là huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân
Nhà Đông Ngô: tách ra khỏi quận Cửu Chân, đặt làm quận Cửu Đức
Nhà Tấn, nhà Lưu Tống vẫn theo như nhà Ngô
Nhà Lương (năm 502-557): Chia đặt làm Đức Châu, Lỵ Châu và Minh Châu
Nhà Tùy: Năm Khai Hoàng thứ 18 (598) đổi Đức Châu làm Hoan Châu, Lỵ Châu làm Trí Châu. Năm Đại Nghiệp thứ 3 (607) hợp cả Minh Châu, Trí Châu và Hoan Châu, đổi lệ thuộc quận Nhật Nam.
Nhà Đường: Niên hiệu Vũ Đức chia quận Nhật Nam đặt làm Đức Châu, Lạo Châu, Minh Châu và Hoan Châu. Năm Trinh Quán thứ 1 (627) đổi Đức Châu lại làm Hoan Châu, còn Hoan Châu cũ thì đổi làm Diễn Châu. Năm thứ 16 bỏ Diễn Châu hợp vào Hoan Châu. Đầu năm Thiên Bảo lại đổi là Hoan Châu, thuộc vào quận Nhật Nam. Từ năm Kiền Nguyên trở về sau gọi là Hoan Châu, rồi bỏ Tri Châu mà cho lệ thuộc vào Hoan Châu. Năm Quảng Đức thứ hai chia Hoan Châu đặt quận Long Trì thuộc Diễn Châu, lại gọi là quận Diễn Thủy.
Thời kỳ đất nước độc lập tự chủ: Nhà Ngô, Nhà Đinh, nhà Tiền Lê: gọi là Hoan Châu. Nhà Lý: đổi làm trại: Nghệ An châu trại; năm Thiên Thành thứ 2 (năm 1030) đổi tên là Nghệ An châu, mà Diễn Châu thì đứng riêng làm châu. Nhà Trần: năm Nguyên Phong thứ 6 lại gọi là Trại Nghệ An, năm Long Khánh thứ 3 (1375) đổi Diễn Châu làm Diễn Châu lộ, chia Hoan Châu làm 4 lộ: Nhật Nam, Nghệ An Nam, Nghệ An Bắc, Nghệ An Trung, cũng gọi là Nghệ An phủ, năm Quang Thái thứ 10 đổi Nghệ An làm Lâm An trấn, Diễn Châu làm Vọng An trấn. Đời nhà Hồ đổi Diễn Châu làm Linh Nguyên phủ, cùng với Thanh Hóa, Cửu Chân, Ái Châu gọi là tứ phụ. Thời thuộc nhà Minh lại đổi làm 2 phủ Diễn Châu và Nghệ An; phủ Diễn Châu lĩnh 3 huyện là Quỳnh Lâm, Trà Thanh, Phù Lưu; phủ Nghệ An lĩnh 4 châu là Hoan Châu, Nam Tĩnh, Trà Lung, Ngọc Ma và 13 huyện là Nha Nghi, Chi La, Phi Lộc, Thổ Du, Kệ Giang, Chân Phúc, Cổ Xã, Thổ Hoàng, Đông Ngàn, Thạch Đường, Kỳ La, Bàn Thạch, Hà Hoa.
Nhà Hậu Lê: năm Thuận Thiên nguyên niên thuộc đạo Hải Tây; năm Quang Thuận thứ 7 đặt làm Nghệ An thừa tuyên; năm Hồng Đức thứ 1, định bản đồ tỉnh này có 9 phủ, 27 huyện, 2 châu. Thiên nam dư hạ lục chép rằng: Phủ Đức Quang lĩnh 6 huyện là Thiên Lộc, La Sơn, Nghi Xuân, Chân Phúc, Hương Sơn, Thanh Giang, Phủ Anh Đô lĩnh 2 huyện là Nam Đường, Hưng Nguyên. Phủ Diễn Châu lĩnh 2 huyện là Đông Thành và Quỳnh Lưu. Phủ Hà Hoa lĩnh 2 huyện là Thạch Hà và Hà Hoa. Phủ Trà Lân lĩnh 4 huyện là Kỳ Sơn, Tương Dương, Vĩnh Khang, Hội Ninh. Phủ Quỳnh Châu lĩnh 2 huyện là Trung Sơn, Thuý Vân, Phủ Trấn Ninh lĩnh 7 huyện là Quang Vinh, Minh Quảng, Cảnh Thuần, Thanh Vị, Kim Sơn, Châu Giang, Trung Thuận. Phủ Ngọc Ma lĩnh một châu Trịnh Cao, phủ Lâm An lĩnh một châu Quy Hợp. Toàn hạt 25 huyện, 2 châu. Năm Hồng Đức thứ 21 (năm 1490) đổi làm xứ: xứ Nghệ.
Lúc bấy giờ, xứ Nghệ gồm 9 phủ: Phủ Đức Quang quản lĩnh 6 huyện: Thiên Lộc (Can Lộc và Bắc Lộc Hà ngày nay), La Sơn (Đức Thọ), Chân Phúc (Nghi Lộc), Thanh Chương (gồm huyện Thanh Chương và Tây Nam huyện Nam Đàn hiện nay), Hương Sơn (bao gồm các huyện: Hương Sơn, Vũ Quang, Hương Khê ngày nay) và Nghi Xuân.
Phủ Diễn Châu quản lĩnh 2 huyện: Đông Thành (Yên Thành và Diễn Châu) và Quỳnh Lưu (huyện Quỳnh Lưu và Đông huyện Nghĩa Đàn hiện nay)
Phủ Anh Đô quản lĩnh 2 huyện: Hưng Nguyên và Nam Đường (Nam Đàn, Đô Lương, Anh Sơn).
Phủ Hà Hoa quản lĩnh 2 huyện: Thạch Hà (huyện Thạch Hà, Nam Lộc Hà và thành phố Hà Tĩnh) và Kỳ Hoa (Kỳ Anh và Cẩm Xuyên).
Phủ Trà Lân quản lĩnh 4 huyện: Kỳ Sơn (đầu thế kỷ 19 gồm 5 tổng[1]: Cổ Khuông, Chiêu Lưu (nay khoảng xã Chiêu Lưu), Nhân Lý (nay khoảng các xã Bắc Lý, Mỹ Lý), Đỗ Lãng, Hiếu Kiệm (nay khoảng xã Hữu Kiệm), Tương Dương (đầu thế kỷ 19 gồm 3 tổng Cẩm Dã, Yên Lòng Bán, Tứ Dương), Vĩnh Khang (tức Vĩnh Hòa, đầu thế kỷ 19 gồm 3 tổng: Phi Cốc, Thanh Nhuế, Huyền Lãng) và Hội Ninh (tức Hội Nguyên, đầu thế kỷ 19 gồm 3 tổng Bàu Lá, Nga Mi (nay là xã Nga My huyện Tương Dương), Bình Chuẩn (nay là xã Bình Chuẩn huyện Con Cuông)).
Phủ Quỳ Châu quản lĩnh 2 huyện: Trung Sơn (nay là huyện Quế Phong) và Thúy Vân (nay là huyện Quỳ Châu và Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.
Phủ Trấn Ninh tức là đất Bồn Man xưa, người bản xứ gọi là Mường Bồn, (phần đất nay thuộc tỉnh Xiêng Khoảng Lào). Năm 1479, Cầm Công vua Bồn Man chống lại Đại Việt, Lê Thánh Tông thân chinh tiến đánh thu phục Bồn Man sáp nhập vào Đại Việt đổi thành Trấn Ninh trực thuộc Hoan Châu và cho thổ quan là Cầm Lư làm tù trưởng. Về sau lấy thêm đất Hô Mường ở phía Bắc, tức là đất thuộc Lão Qua xưa (Hô Mường (Huameuang) vùng đất nay là tỉnh Hủa Phăn Lào). Phía Tây Trấn Ninh tiếp giáp với Ai Lao.
Phủ Ngọc Ma quản lĩnh 1 châu: Trịnh Cao (Trịnh Cao chưa xác định được ở đâu, có thể hiện nay thuộc tỉnh Bô Ly Khăm Xay (Lào) (vùng giáp ranh với Việt Nam như: huyện Viengthong). Theo Phan Huy Chú thì phủ Ngọc Ma cùng phủ Quỳ Châu ở phía Tây trấn Nghệ An, nối liền với xứ Ai Lao. Năm 1827, phủ Ngọc Ma được đổi thành phủ Trấn Định và gộp thêm các châu Cam Môn, Cam Cát, Cam Linh (tức Phàm Linh, theo Nguyễn Văn Siêu), Cam Môn thuộc đất tỉnh Khăm Muộn (Lào), Cam Cát tức Khamkheuth tỉnh Bô Ly Khăm Xay (Lào), Phàm Linh nay là khoảng vùng Pakkadinh tỉnh Bô Ly Khăm Xay (Lào). Cam Cát và Cam Môn là những vùng đất tiếp giáp với địa bàn huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh ngày nay, vì theo Nguyễn Văn Siêu thì: "... Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), thổ mục và thổ dân 2 huyện Cam Môn, Cam Cát đến trú ngụ ở địa bàn huyện Hương Sơn, nhân thế cho chúng chia thuộc vào phủ Đức Thọ"[2].
Phủ Lâm An quản lĩnh 1 châu Quy Hợp (thuộc đất Hà Tĩnh thời nhà Nguyễn). Theo Phan Huy Chú, phủ Lâm An vốn trước là phần đất của Bồn Man chư hầu của Ai Lao, đến năm 1448 niên hiệu Thái Hòa thứ 5, tù trưởng vùng này sang thần phục nhà Lê, Lê Nhân Tông cho nhập vào Đại Việt đổi tên thành Quy Hợp, địa giới nằm ở tận cùng phía Tây xứ Nghệ. Châu thành châu Quy Hợp nhà Lê đặt tại làng Trừng Thanh nằm bên bờ Nam sông Tiêm thượng nguồn của sông La, nay là thôn Trừng Thanh, xã Hương Vĩnh, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1828 được đổi thành phủ Trấn Tĩnh. Theo Nguyễn Văn Siêu: Năm 1828-Minh Mạng thứ 9 trấn Nghệ An được đặt thêm 3 phủ: Trấn Tĩnh (bỏ phủ Lâm An, châu Quy Hợp đổi thành Tấn Hoàn), Trấn Biên và Lạc Biên. Phủ Trấn Tĩnh nằm ở phía Tây Nam tỉnh Nghệ An-Hà Tĩnh nhà Nguyễn (nay khoảng các huyện Hương Khê - Hà Tĩnh, Tuyên Hóa - Quảng Bình, và huyện Nakai Khăm Muộn (Lào), vốn là đất thuộc 3 động Thâm Nguyên (đầu nguồn của sông Ngàn Sâu), Yên Sơn, Mộng Sơn của châu Quy Hợp phủ Lâm An. Năm 1827, Minh Mạng thứ 8, vua Vạn Tượng là Chiêu Nỗ (Chao Anou) bị quân Xiêm đánh thua bỏ nước chạy, thổ dân Trấn Tĩnh xin nhập vào Đại Nam, Minh Mạng cho nhập vào Nghệ An, đặt là Trấn Tĩnh[3].
Khoảng giữa năm Hồng Thuận (1510-1516) vua Lê Tương Dực đổi xứ Nghệ làm trấn Nghệ An. Năm Giáp Ngọ (1774) quân chúa Trịnh, vào chiếm được đất 2 châu Bố Chính Nội (phía Nam sông Gianh, huyện Bố Trạch) và Bố Chính Ngoại (phía Bắc sông Gianh, huyện Quảng Trạch và Tuyên Hóa thuộc Quảng Bình của chúa Nguyễn, đã sáp nhập cả vào phủ Hà Hoa trấn Nghệ An. Nhưng đến năm Bính Ngọ (1786), quân nhà Tây Sơn chiếm lại được vùng này lại đổi về đất Quảng Bình như cũ nhưng đặt tên gọi khác[4].
Thời nhà Tây Sơn (1778-1802): xứ Nghệ được đổi làm Trung Đô (Kinh đô tương lai của nhà Tây Sơn): Hoàng đế Quang Trung cho xây Phượng Hoàng Trung Đô ở thành phố Vinh ngày nay, lại gọi là Nghệ An trấn.
Thời nhà Nguyễn: Theo Nguyễn Văn Siêu: "... Bản triều năm Gia Long nguyên niên lại đặt làm Nghệ An trấn; Đồ bản và sổ hộ năm Gia Long thứ 1, chép trấn Nghệ An, 9 phủ, là Đức Quang, Diễn Châu, Hà Hoa, Anh Đô, Trà Lân, Quỳ Châu, Trấn Ninh, Lâm An, Ngọc Ma; 18 huyện là Hương Sơn, Nghi Xuân, Thanh Chương, La Sơn, Chân Lộc, Thiên Lộc, Đông Thành, Quỳnh Lưu, Kỳ Hoa, Thạch Hà, Nam Đường, Hưng Nguyên,Tương Dương, Vĩnh Hoà, Hội Nguyên, Kỳ Sơn, Thuý Vân, Trung Sơn. So với bản đồ thời Hồng Đức thì thiếu 7 huyện như vùng Quang Vinh, và 2 châu Trịnh Cao, Quy Hợp. Có lẽ do biên chép sai lầm."[5][14]
Năm 1826, Minh Mạng thứ 7, nhà Nguyễn cho lấy 3 dũng là: dũng Lan, dũng Đỏ và dũng Châu của mán Lèo thuộc châu Quy Hợp phủ Lâm An trấn Nghệ An, do ở giáp ranh với phía Tây Quảng Bình (khi đó gọi là dinh Quảng Bình), chuyển sang thuộc vào dinh Quảng Bình (năm 1828 dinh Quảng Bình đổi thành trấn Quảng Bình). Phần đất này ngày nay thuộc huyện Minh Hóa và phía Tây huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình.
Năm 1828, trấn Nghệ An được nhập thêm 2 phủ mới là Trấn Biên và Lạc Biên, nâng tổng số lên 11 phủ. Phủ Trấn Biên ở Tây Bắc tỉnh Nghệ An thời nhà Nguyễn, có 4 huyện lệ thuộc vốn là 4 trong 7 mán Mang Hổ nước Ai Lao: Xa Hổ (trước gọi là Man Hổ), Xầm Tộ (trước đó là Hổ Phân Xầm Tộ, còn ngày nay là Xầm Tơ huyện Xamtay tỉnh Hủa Phăn Lào), Mang Lan (trước là Hổ Phân Mang Lan, ngày nay khoảng vùng Mương Lan huyện Xamtay Hủa Phăn), Man Soạn (vốn là Hổ Phân Man Soạn). Phủ Lạc Biên ở phía Tây Nam tỉnh Nghệ An nhà Nguyễn, vốn là đất Cống Man Lạc Hoàn (tức mường Lạc Hoàn (Muang Lakhone) của vương quốc Viêng Chăn (Vạn Tượng)).
Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) chia Nghệ An trấn thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc sông Lam); Hà Tĩnh (phía Nam sông Lam).
Năm Tự Đức thứ 6 đổi tỉnh Hà Tĩnh làm đạo, hợp vào Nghệ An thành An Tĩnh. Năm Tự Đức thứ 29 lại đặt tỉnh Hà Tĩnh như cũ.
Thời Pháp thuộc: Cùng với việc phân lại địa giới hành chính giữa các kỳ và các xứ thuộc địa của Pháp