Nói đến người Nghệ, người ta thường dùng từ: Đoàn kết, gan góc, quyết liệt, cần cù, tiết kiệm, thẳng thắn, chân thành, chung thủy, hiếu học,... Nói khách quan, những đức tính này không chỉ có ở người Nghệ. Nhưng hình như ở người Nghệ được thể hiện cao hơn, đậm nét hơn. Khi đã yêu nước, căm thù giặc thì họ dám xả thân. Khi đã yêu thì yêu đến kiệt cùng, quên cả bản thân mình. Khi đã hiếu học thì trở thành “đạo học”,...
Bên những cái hay, cái tích cực, những biểu hiện “cực đoan” như vậy có khi lại trở thành những điểm hạn chế. Thẳng thắn quá thì cứng nhắc. Quyết liệt quá thì cực đoan. Cần kiệm quá đến mức thì khổ hạnh, kẹt xỉn. Khảng khái quá thì bảo thủ, gàn bướng. Đoàn kết quá thì dễ kết bè, kéo cánh, cục bộ hẹp hòi,... Không ít những trường hợp gây hiểu nhầm hoặc sự khó chịu, mất lòng với người khác, cộng đồng khác, thậm chí lại mang tiếng xấu, thiệt thòi cho cả cộng đồng Nghệ.
Tôi không phải là nhà nghiên cứu. Nhưng sinh ra, lớn lên trong cộng đồng, qua sách vở, nghe kể chuyện thì ngay ở quê mình cũng đã thấy nhiều nhân vật, câu chuyện thể hiện đậm đặc tính cách ấy.
Tiến sĩ Nguyễn Thế Bình sinh ra trên vùng quê “Trai Cát Ngạn”, là người có trí thông minh hơn người. Ông đậu Tiến sĩ năm 1768, được ghi tên vào bia Văn miếu Quốc tử giám. Sau khi đậu Tiến sỹ, ông được vua ban cấp lộc điền ở quê nhà để thu hoa lợi. Thương dân cực khổ, ông không giành phần ruộng màu mỡ cho mình mà chọn vùng đất Triều Sơn – là ngọn đồi chỉ toàn sỏi đá và vùng bãi nhỏ hẹp làm đất lộc điền. Người dân còn lưu lại truyền thuyết: Thuở ấy, đất nước trong buổi nhiễu nhương. Tuyên phi Đặng Thị Huệ, là người được Chúa Trịnh sủng ái. Thị Huệ có những việc làm lăng loàn trong phủ Chúa, nhiều người căm phẫn nhưng không ai dám can gián. Đã thế, “cậu trời” Đặng Mậu Lân – em trai Thị Huệ càng bất chấp đạo lý, ăn chơi trác táng vô độ, dâm ác, coi thường mọi người. Sự việc đến mức không thể chấp nhận, phải đưa Mậu Lân ra xét xử. Ai cũng căm ghét Mậu Lân nhưng khi được cử xét xử thì như “treo chuông vào cổ con mèo”. Người thì cáo bệnh, người thì vin cớ này, cớ khác để khéo léo cáo lui. Sự thực thì họ sợ đụng chạm, xử nhẹ thì không hợp luật pháp, xử đúng thì sợ thế lực của Thị Huệ, Mậu Lân trả thù. Họ sợ “đấu tranh không biết tránh đâu”, cuối cùng lại thiệt cho mình. Ông Nghè Cát Ngạn được chỉ định nghị án. Nguyễn Thế Bình nghiêm cẩn, liêm khiết, thẳng thắn. Mậu Lân bị xử rất nặng. Quần thần hả hê nhưng không khỏi kinh hãi và khâm phục.
Ông Nghè Đinh Nhật Thận người làng Tiên Hội - xã Thanh Tiên bây giờ. Quốc triều đăng khoa lục chép về ông: “Ông đọc sách qua một lượt là nhớ. Làm văn, cất bút là xong, không cần phải nháp, ý tứ mới lạ, phần nhiều không theo khuôn sáo lối văn thời bấy giờ. Văn thơ ông làm xong là bỏ qua, không lưu lại bài nào” (Cao Xuân Dục, Quốc triều đăng khoa lục, Nxb Văn học, trang 69).
Ông đỗ Tiến sĩ đồng khoa với Cao Bá Quát, được ghi tên vào bia Văn miếu Quốc tử giám. Cụ Nghè Đinh là người sống khoáng đạt, phóng túng, giỏi ứng xử trong văn chương, thơ phú, làm thuốc giỏi, nổi tiếng với những toa thuốc “độc vị”. Chuyện kể: Mẹ của vị quan thượng thư ốm nặng, chạy chữa mãi không khỏi. Quan cho đòi cụ Nghè đến khám cho mẹ. Nghe lệnh đòi, cụ bảo: Xưa nay, chỉ có mời thầy chữa bệnh chứ ai lại bắt thầy đi chữa bệnh! Vị quan giận lắm nhưng vì sinh mệnh của mẹ nên phải hạ cố, đến mời Cụ Nghè Đinh. Theo lệ thường, với người quyền quý, người ta chỉ lục vấn, buộc chỉ vào cổ tay cho thầy bắt mạch. Cụ Nghè không chịu, đòi phải trực tiếp bắt mạch, xem mặt, xem lưỡi. Quan đành phải chấp nhận. Khám xong, Cụ Nghè bốc một toa thuốc độc vị, chỉ uống xong toa thuốc ấy bà đã khỏi bệnh.
Đinh Nhật Thận là bạn thân của Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh. Cao Bá Quát làm quân sư cho Lê Duy Cự khởi nghĩa chống lại triều đình. Đinh Nhật Thận bị nghi kỵ, gọi về Huế để theo dõi. Chuyện kể rằng: Một lần mật thám của phủ Thừa Thiên thấy người nhà ông cầm một bức thư sang sông. Tên này giật lấy xem, thư viết: "Tứ tướng dĩ cụ, chỉ khiếm nhất viên, tương nhất bách nhị thập tinh binh, độ hà lai chiến", nghĩa là: "Bốn tướng đã có mặt, chỉ thiếu một tướng, hãy đem đủ 120 tinh binh, qua sông giao chiến". Bị bắt giải về phủ, ông giải thích: "Thưa, đây chỉ là một giấy mời đánh tổ tôm. Tôi đã có ba người bạn đến rủ đánh tổ tôm, với tôi là bốn, đó là "Tứ tướng dĩ cụ". Nhưng đánh tổ tôm phải có năm người, nên "Chỉ khiếm nhất viên". Tôi mời một người bạn nữa ở bên kia sông sang chơi và mượn thêm cỗ bài 120 quân, nên phải: "Tương nhất bách nhị thập tinh binh, qua sông giao chiến". Quan phủ doãn không chấp nhận, giải ông về trình bộ Hình. Quan thượng thư bộ Hình vốn có thù sẵn với ông nên cố tình ghép ông vào tội tử hình vì có âm mưu làm loạn. Nhưng ông đã thoát chết nhờ tài văn chương, “tếu táo”,... Vì mến tài ông, vua Tự Đức lưu ông lại ở kinh đô để dạy con em trong hoàng tộc và cũng là một kế để dễ bề kiềm tỏa. Ông mất năm Bính Dần (1866).
Nguyễn Sĩ Sách, người làng Tú Viên, xã Thanh Lương, đỗ đầu bằng Thành chung trường Nghệ, bạn thân với Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt. Ông sớm tham gia hoạt động cách mạng, mới 26 tuổi đã làm Bí thư Kỳ bộ Trung Kỳ. Năm 1929, ông bị bọn mật thám bắt giam, chúng chuyển ông qua nhiều nhà giam. Đến đâu, ông cũng là linh hồn cho phong trào “biến nhà tù thành trường học”, đấu tranh với chế độ hà khắc của bọn đế quốc, thực dân. Chánh mật thám Công Bơ, người Pháp phụ trách nhà giam, biết ông là nhân vật quan trọng nên giở hết các ngón đòn xảo quyệt. Ngon ngọt mua chuộc dụ dỗ không được, chúng khảo tra tàn khốc. Không khuất phục được người cộng sản trẻ tuổi, chúng đưa ông về phòng biệt giam. Nguyễn Sĩ Sách cắp manh chiếu đi trước, Công Bơ cầm súng hằn học đi sau và không ngớt chửi rủa bằng tiếng Pháp. Ông đã dùng tiếng Pháp chửi thẳng vào mặt bọn chúng là quân dã man cướp nước mà miệng cứ bô bô là khai hóa văn minh, đồng thời dùng manh chiếu quật thẳng vào mặt của Công Bơ. Để bảo vệ tên chúa ngục khát máu khi bị ông quất chiếc chiếu vào mặt, bọn tay sai đã bắn chết đồng chí Nguyễn Sỹ Sách.
Nguyễn Bùi Vợi người làng Thổ Sơn - Cát Ngạn, 17 tuổi đã cùng Xuân Diệu đi đọc thơ phục vụ truyên truyền cải cách ruộng đất. Ông đi học Khu học xá ở Trung Quốc. Năm 1957, ông về làm tổ trưởng chuyên môn và dạy Văn tại trường Sư phạm Hà Nội. Một lần, ông Vụ trưởng Vụ Giáo dục Sư phạm về dự giờ một thầy giáo trong tổ. Đánh giá giờ dạy, Vụ trưởng trái ngược với ông Tổ trưởng và các thầy giáo trong trường. Ông Vụ trưởng phủ nhận hoàn toàn cả nội dung và phương pháp. Mọi người sợ, khép nép, không dám nói gì. Nguyễn Bùi Vợi không đồng tình. Ông lịch sự xin phép: Về tuổi tác, chúng em là bậc con cháu, về chức vụ, chúng em là cấp dưới, về học thuật thầy là Tiến sĩ nhưng về khoa học, xin thầy cho được bình đẳng, cho trao đổi, tranh luận,…Vị Vụ trưởng bực mình, cắp cặp bỏ về tức khắc và báo cáo với Bộ trưởng. Mấy hôm sau, không báo trước một buổi nào, Giáo sư - Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên trực tiếp về trường dự giờ giảng văn của “ông Đồ Nghệ trẻ”. Ngay sau tiếng trống hết giờ, Bộ trưởng bước lên bục giảng, cảm động, ôm lấy ông, khen và mong giáo viên văn ai cũng dạy được như vậy! Nguyễn Bùi Vợi mừng rơi nước mắt.
Xử nghiêm với người nhà “Hoàng thân, quốc thích”, không quỵ lụy trước ngạo nghễ, cường quyền, hiên ngang chấp nhận cái chết trước kẻ thù, ... thời nào cũng thường nhận cái thiệt về mình. Nhưng không phải ai cũng làm được điều đó. Nhiều người nể trọng, ngưỡng mộ và tự hào với những người, những hành động đó nhưng cũng có người cho rằng họ quá cực đoan, thiếu mềm mỏng, sao không chọn cách hành xử êm hơn, có lợi hơn (?). Đó là quan niệm của mỗi người!
Mấy mẩu trên chỉ là những câu chuyện điển hình, được sử sách, người đời truyền lại. Trong lịch sử, trên mảnh đất này, đã biết bao vụ việc đại loại như vậy. Tôi cứ “lăn tăn”: Có phải do sinh ra, lớn lên trên mảnh đất khô cằn, phải chống chọi với thiên tai khắc nghiệt, dịch họa… chỉ có cái “chất” ấy mới tồn tại và phát triển?
Đất nước, quê hương đang tiếp tục hội nhập với mọi miền đất nước và quốc tế. Một góc nhìn trong tính cách, khí chất người Nghệ, đáng để ta ngẫm nghĩ, nghiên cứu, trao đổi.