tt-1702258220.jpg
Chương trình nghệ thuật khai mạc Festival Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh năm 2023

Thực tiễn Việt Nam suốt chiều dài lịch sử, với hàng nghìn năm hình thành và phát triển, chúng ta đã xây dựng và hun đúc nên bề dày văn hóa lâu đời. Giá trị của nền văn hóa hàng ngàn năm đó đã và đang góp phần tạo nên sức mạnh, làm cho tiềm lực, vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng tăng cao trên trường quốc tế. Văn hóa chính là nguồn sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và nguồn sức mạnh mềm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng của đất nước hiện nay.

Sức mạnh mềm trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Theo Giáo sư Joseph S.Nye (Hoa Kỳ): “Sức mạnh mềm là khả năng đạt những điều mong muốn bằng sức hấp dẫn hơn là sự ép buộc hay bằng các khoản mua chuộc, sức mạnh mềm được tạo nên từ sức hấp dẫn của một quốc gia thông qua văn hóa, các tư tưởng chính trị và các chính sách của quốc gia đó”[1]. Một quốc gia được coi là thành công trong việc xây dựng “sức mạnh mềm” khi dựa trên sức hấp dẫn của văn hóa, quan điểm chính trị và chính sách ngoại giao đủ sức lôi cuốn nước khác đi theo mình, không như “sức mạnh cứng” bao gồm: tiềm lực về kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật và nguồn tài nguyên mà xưa nay là những sức mạnh hữu hình chi phối các mối quan hệ quốc tế. “Sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm” có mối quan hệ biện chứng, tác động và có khả năng củng cố lẫn nhau. Sức mạnh cứng là “hậu phương”, là một trong những cơ sở để phát huy sức mạnh mềm. Sức mạnh mềm hấp dẫn khi chúng bắt nguồn từ thành công về vật chất, những thứ do sức mạnh cứng mang lại. Cũng theo Joseph S.Nye, khả năng kết hợp giữa “sức mạnh mềm” và “sức mạnh cứng” sẽ tạo ra “sức mạnh thông minh” (Smart power). Sức mạnh thông minh không phải là một loại quyền lực thứ ba; là sự kết hợp hay pha trộn giữa sức mạnh mềm và sức mạnh cứng. Đó là khả năng xác định bối cảnh, lợi dụng các xu hướng và sử dụng hợp lý sức mạnh cứng và sức mạnh mềm để đạt được hiệu quả cao nhất.

Quan niệm về nội hàm “sức mạnh mềm” của Joseph S.Nye đang nhận được sự quan tâm, thảo luận, phân tích của khá nhiều nhà khoa học, các chính trị gia trên thế giới; nó có thể chưa đầy đủ hoặc còn phải bàn luận thêm để làm rõ hơn những nội hàm của nó gắn với mỗi giai đoạn lịch sử hay với mỗi một quốc gia nhất định; tuy nhiên có thể thấy, trong các yếu tố cấu thành sức mạnh tổng hợp quốc gia sẽ bao gồm các nhân tố về vật chất (gọi là phần cứng), nhân tố về tinh thần (gọi là phần mềm). Trong đó, sức mạnh cứng của một quốc gia là tổng hòa các yếu tố: tài nguyên cơ bản (như diện tích đất đai, dân số, tài nguyên tự nhiên...), sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế, sức mạnh khoa học - kỹ thuật... Còn sức mạnh mềm của một quốc gia là khả năng quốc gia này dùng ảnh hưởng thuyết phục chủ thể quốc gia khác làm theo ý mình thông qua sự hấp dẫn, lôi cuốn, thuyết phục. Cần thấy rằng, sức mạnh mềm là một loại sức mạnh tổng hợp, được cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau. Đó là sự kết tinh của: truyền thống, sự hấp dẫn của nền văn hóa; thể chế, chế độ chính trị, năng lực bộ máy nhà nước; sức hấp dẫn từ các chính sách kinh tế hiệu quả; lối sống, cốt cách, chất lượng nguồn lực con người; chính sách đối ngoại của chính phủ; uy tín, vị thế quốc gia trong các tổ chức quốc tế... Tuy nhiên, sức mạnh mềm không phải là một thực thể tĩnh mà là một quá trình động, trong đó các nhân tố tạo nên sức mạnh mềm bổ sung, hỗ trợ và tương tác, chuyển hóa lẫn nhau. Theo thời gian, các nhân tố của sức mạnh mềm có thể thay đổi, tiếp biến, do vậy, sức mạnh mềm tổng thể của quốc gia cũng có những biến đổi.

Từ lý luận về sức mạnh mềm đã nêu ra ở trên, đối với Việt Nam, có thể hiểu sức mạnh mềm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới chính là một bộ phận của sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Sức mạnh mềm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có được là sự kết tinh của giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc; từ thể chế chính trị, con đường phát triển của đất nước với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân; đường lối kinh tế, chính trị, ngoại giao đúng đắn, mềm dẻo, linh hoạt; từ sự thành công vượt bậc của công cuộc đổi mới đất nước về kinh tế; lối sống, cốt cách, chất lượng nguồn lực con người Việt Nam; từ vị thế, uy tín quốc gia; môi trường đất nước hòa bình, ổn định, tính chính nghĩa trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, “thế trận lòng dân” vững chắc...

Như vậy, sức mạnh mềm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự tổng hòa của rất nhiều các nhân tố kết tinh lại, trong đó giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc là một bộ phận có ý nghĩa, vai trò quan trọng hàng đầu. Điều đó đặt ra cho chúng ta cần có phương hướng, giải pháp để phát huy, chuyển hóa các giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và sức mạnh mềm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó trọng tâm là phát huy, lan tỏa những giá trị truyền thống tốt đẹp, bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước như: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Đây là những tài sản hết sức quý báu, trở thành nền tảng, hành trang để dân tộc ta tiến bước vào giai đoạn phát triển mới của đất nước. Các giá trị này cần được thể hiện trong văn học, nghệ thuật; trong văn hóa ứng xử, giao tiếp; trong văn hóa ngoại giao..., thu hút sự quan tâm, tạo nên sức hấp dẫn đối với đông đảo bạn bè trên thế giới.

Phát huy, chuyển hóa các giá trị văn hóa thành sức mạnh mềm bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới

Để phát huy, chuyển hóa các giá trị văn hóa thành sức mạnh nội sinh, sức mạnh mềm bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới cần thực hiện một số nội dung, yêu cầu sau:

Một là, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương và toàn xã hội về vị trí, vai trò, đóng góp của văn hóa trong phát triển bền vững kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Trước tiên cần nhận thức sâu sắc, quán triệt và thực hiện tốt các chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực văn hóa như: Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998 của Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”; Quyết định số 1909/QĐ-TTg, ngày 12/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030”... Thực sự coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng và phát triển hài hòa với kinh tế, chính trị, xã hội; bảo đảm yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế; thích ứng với xu thế phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các công nghệ mới, hiện đại và biến đổi kinh tế - xã hội, con người do tác động của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng... Quan tâm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc.

Hai là, khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước. Chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo lý xã hội. Xây dựng các quy tắc ứng xử văn minh trong các cơ quan công quyền, trong cộng đồng, nhất là trong không gian mạng, trong giới văn nghệ sĩ... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống tham ô, tham nhũng, tiêu cực; chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, nguồn gốc của mọi sự tham nhũng, tiêu cực, hư hỏng ngay trong các ngành văn hóa, các cơ quan làm công tác văn hóa. Chú trọng thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII và đặc biệt là các kết luận, quyết định của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng mới đây về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.

Ba là, xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển toàn diện. Từng bước hình thành các giá trị chuẩn mực góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, thích ứng với những tác động của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng..., nâng cao sức mạnh nội sinh nhằm khắc phục những hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái đạo đức xã hội. Chăm lo xây dựng con người Việt Nam thời kỳ mới với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: “yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo” được xác định trong Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030. Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ nghệ thuật cho Nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ thông qua các chương trình giáo dục trong nhà trường, các hoạt động xã hội và trên các phương tiện truyền thông. Bảo đảm quyền tiếp cận, hưởng thụ, tham gia và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và cộng đồng thông qua các trung tâm văn hóa nghệ thuật cùng với các thiết chế văn hóa khác như bảo tàng, thư viện...

Bốn là, đẩy mạnh ngoại giao văn hóa, chủ động hợp tác và quảng bá các giá trị văn hóa của Việt Nam ra thế giới, phát huy sức mạnh mềm văn hóa, tạo dựng môi trường hòa bình, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo đảm sự phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Về vấn đề này, Đảng ta xác định: “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về văn hóa, xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại; từng bước đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới”[2]. Mục tiêu của công tác ngoại giao văn hóa là sử dụng công cụ văn hóa trong ngoại giao nhằm đưa quan hệ Việt Nam với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, tạo lập và giữ vững mội trường hòa bình, ổn định, huy động nguồn lực bên ngoài, biến điều kiện thuận lợi, vị thế đất nước thành nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời dùng các biện pháp ngoại giao để tôn vinh các giá trị, vẻ đẹp của văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tăng cường sức mạnh mềm, nâng cao vị thế đất nước.

Theo đó, chúng ta cần chủ động quảng bá các giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra với thế giới; trong đó chú trọng việc lan tỏa hình ảnh Việt Nam là một đất nước văn minh, an toàn, tươi đẹp; văn hóa độc đáo, giàu truyền thống; phát triển năng động; con người thân thiện, mến khách; điểm đến đáng tin cậy để sinh sống, học tập, du lịch, đầu tư. Tăng cường giới thiệu con người Việt Nam thông qua hình ảnh các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, cá nhân tiêu biểu như: danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi, đại thi hào Nguyễn Du, nhà giáo Chu Văn An... và đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, cần tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, đóng góp vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; đồng thời bảo vệ các giá trị nền tảng tư tưởng của Đảng, thành quả của đất nước.

Gắn kết ngoại giao văn hóa với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế nhằm phục vụ các mục tiêu hòa bình, an ninh, phát triển đất nước và nâng cao vị thế, uy tín quốc gia. Tiếp tục tăng cường sự hiện diện của Việt Nam tại các sự kiện văn hóa quốc tế có uy tín; tích cực tham gia chủ động, trách nhiệm tại các tổ chức, diễn đàn văn hóa cấp khu vực và thế giới như: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu (ASEM), Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Hợp tác Đông Á - Mỹ Latinh (FEALAC), Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ (OIF), các tổ chức phi Chính phủ về văn hóa... Tăng cường hỗ trợ đồng bào Việt Nam ở nước ngoài trong việc giữ gìn tiếng Việt, phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; thúc đẩy đưa tiếng Việt vào chương trình giảng dạy ở các cơ sở giáo dục tại địa bàn có đông người Việt Nam sinh sống; nghiên cứu lựa chọn Ngày tôn vinh tiếng Việt hằng năm để khuyến khích, cổ vũ đồng bào, nhất là thế hệ trẻ học tập và giữ gìn tiếng Việt.

Năm là, xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh để hình thành nên những quan hệ văn hóa lành mạnh. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là tạo điều kiện để những giá trị văn hóa tốt đẹp được nảy nở, phát huy; làm cho văn hóa Việt Nam có khả năng “đề kháng” với những tác động phản văn hóa từ bên ngoài, giữ vững những giá trị và bản sắc bên trong. Chú trọng phát triển văn hóa đặc trưng trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội: giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, báo chí và truyền thông, tôn giáo và tín ngưỡng... Xây dựng quy chế, nội quy, Bộ tiêu chí về môi trường văn hóa trong: gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp, tổ chức xã hội..., nhằm hình thành các chuẩn mực về văn hóa đạo đức, hành vi ứng xử. Đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả các quy tắc ứng xử văn hóa, văn minh trên môi trường mạng xã hội. Phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong xây dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh hơn nữa việc hạn chế, từng bước xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu. Xây dựng nếp sống văn hóa, tiến bộ, văn minh đô thị và nông thôn, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội; chấn chỉnh kịp thời việc lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để truyền bá tư tưởng duy tâm thần bí, thực hành mê tín dị đoan, gây mất an ninh xã hội. Phản bác kịp thời, hiệu quả các luận điệu sai trái, xuyên tạc, tuyên truyền không đúng sự thật về các lãnh tụ, danh nhân, lịch sử, văn hóa, đường lối chính sách, đất nước, con người Việt Nam. Đẩy lùi hạn chế, ảnh hưởng của những sản phẩm văn hóa không lành mạnh từ bên ngoài xâm nhập vào Việt Nam.

Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử, là một quốc gia thường xuyên phải đối mặt với nhiều thử thách khốc liệt về thiên tai, địch họa, người Việt Nam đã sớm nhận ra tầm quan trọng của việc vận dụng sức mạnh mềm bảo vệ Tổ quốc để gia tăng sức mạnh quốc gia, chiến thắng kẻ thù xâm lược. Trong bối cảnh đất nước hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, và tham gia tích cực, chủ động vào hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ cơ hội nhằm phát triển đất nước, tạo thế đan cài lợi ích để giữ vững được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng cùng với những cơ hội là không ít thách thức đặt ra đối với chúng ta. Theo đó, việc phát huy sức mạnh mềm từ các giá trị của nền văn hóa chính là phương thức để gia tăng sức mạnh mềm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Đồng thời, nó được xem như một trong những biện pháp hữu hiệu để gia tăng “thương hiệu”, sức mạnh tổng hợp quốc gia, cũng như khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa “từ sớm, từ xa”, giữ nước từ khi nước chưa nguy./.