Ngày 4/8, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Tự chủ đại học năm 2022, do Bộ GD&ĐT tổ chức dưới sự chủ trì của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn và Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh.
Hội nghị có sự tham dự của hơn 900 đại biểu là lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương; đại diện các hiệp hội, các tổ chức quốc tế; bí thư Đảng ủy, chủ tịch hội đồng đại học/chủ tịch hội đồng trường, giám đốc/hiệu trưởng, lãnh đạo bộ phận tổ chức nhân sự của các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) trong cả nước.
Hội nghị diễn ra trong 1 ngày với phần báo cáo của Bộ GD&ĐT về kết quả thực hiện tự chủ đại học; 3 phiên thảo luận với gần 20 tham luận thuộc 3 chủ đề: Chiến lược phát triển và hội nhập quốc tế, Đổi mới quản trị đại học và quản lý nhà nước và Nguồn lực cho phát triển giáo dục đại học. Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam phát biểu chỉ đạo tại hội nghị.
Tự chủ đại học có nhiều chuyển biến tích cực
Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả đã đạt được trong triển khai tự chủ đại học, thẳng thắn nhìn nhận khó khăn, vướng mắc, xác định những nguyên nhân trọng yếu, từ đó định hướng lộ trình cùng những việc cần làm trong thời gian tới.
Hiện nay, cả nước có 154/170 cơ sở GDĐH công lập đã thành lập hội đồng trường theo Luật số 34 và Nghị định 99 (đạt 90,6%). Việc thành lập hội đồng trường tại các trường trực thuộc các bộ, ngành, địa phương đạt tỉ lệ 91,18%. Đại đa số các trường thực hiện tự chủ ở mức độ toàn diện và sâu rộng đều đã mang lại hiệu quả tích cực (trên 77%).
Được kỳ vọng sẽ tạo nên cuộc cách mạng toàn diện cho GDĐH, đến nay, tự chủ đại học đã đạt một số kết quả đáng khích lệ, tạo bước chuyển biến tích cực cả về nhận thức lẫn công tác tổ chức thực hiện. Chuyển biến này xuất phát từ đòi hỏi khách quan, xu thế phát triển của GDĐH trên thế giới và được thúc đẩy bởi chủ trương, đường lối và chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước đã thể hiện quyết tâm trong đẩy mạnh tự chủ; xây dựng hệ thống văn bản triển khai tự chủ theo tinh thần của Luật số 34/2018/QH14, xây dựng được một số mô hình tự chủ hiệu quả, tạo tiền đề để triển khai sâu, rộng trên toàn hệ thống.
Vai trò lãnh đạo của Đảng từ khi thực hiện tự chủ ngày càng tăng thêm. Đảng ủy nhà trường giữ vai trò lãnh đạo toàn diện, mọi mặt, đặc biệt là về mặt nguyên tắc. Kết quả khảo sát các hiệu trưởng, bí thư Đảng ủy và chủ tịch hội đồng trường do Bộ GD&ĐT thực hiện cho thấy, trên 80% tán thành với chủ trương, chính sách tự chủ cho thấy vai trò lãnh đạo của Đảng ủy trường được nâng cao.
Từ năm 2003 đến năm 2018, vai trò và thực quyền của hội đồng trường đã được Quốc hội quy định cụ thể tại Luật số 34. Đây là bước đi quan trọng để các cơ sở GDĐH công lập thực hiện quyền tự chủ về công tác tổ chức bộ máy.
Theo kết quả khảo sát, trên 80% các trường trả lời khảo sát triển khai tự chủ toàn diện, sâu rộng về tuyển sinh và đào tạo dẫn đến các kết quả đạt được tích cực (trên 85%). Trên 65% các trường trả lời khảo sát triển khai tự chủ toàn diện, sâu rộng về hoạt động khoa học và công nghệ, các kết quả đạt được tích cực (trên 80%).
Các cơ sở GDĐH tự chủ đã chủ động rà soát, kiện toàn lại tổ chức bộ máy và nhân sự theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Tự chủ đại học cũng giúp các cơ sở GDĐH đẩy mạnh quá trình xã hội hóa giáo dục, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị nhằm đáp ứng đầy đủ hơn điều kiện giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng.
Trách nhiệm giải trình đã đẩy mạnh việc quy định các cơ sở GDĐH phải thực hiện công khai, minh bạch; hệ thống cơ sở dữ liệu GDĐH để cơ quan quản lý nhà nước giám sát cũng đang được triển khai; một quy chế riêng về thực hiện trách nhiệm giải trình thay thế cho Thông tư số 36/2017/TT-BGDĐT cũng đang được triển khai để đồng bộ với hệ thống cơ sở dữ liệu.
Tự chủ đại học tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
Tính đến 28/2/2022, cả hệ thống có 274 cơ sở giáo dục hoàn thành báo cáo tự đánh giá; 174 cơ sở giáo dục được tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước đánh giá ngoài và công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục; 591 chương trình đào tạo hoàn thành tự đánh giá; 470 chương trình đào tạo được đánh giá ngoài, trong đó có 308 chương trình đào tạo được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng.
Ngày 24/10/2014, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với cơ sở GDĐH công lập giai đoạn 2014-2017. Triển khai nghị quyết này, hệ thống GDĐH đã có bước tiến dài về lực, các nguồn lực được khơi thông và năng lực của cơ sở đào tạo được phát huy tối đa. Hiện nay, đã có 142/232 trường đại học đủ điều kiện tự chủ theo quy định của Luật GDĐH (được sửa đổi, bổ sung năm 2018).
Về nhân lực, từ thời điểm được giao thí điểm tự chủ, các trường đã từng bước hình thành cơ cấu nhân lực phù hợp. Các trường có chính sách cạnh tranh, thu hút giảng viên giỏi chuyên môn và khả năng nghiên cứu khoa học. Tỉ lệ giảng viên trình độ tiến sĩ ngày một tăng, từ 25% năm 2018 lên trên 31% năm 2021.
Về tài chính, đến thời điểm hiện tại 32.76% trường đại học tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư (nhóm 1), 13.79% trường tự bảo đảm chi thường xuyên (nhóm 2).
Về nâng cao năng lực tài chính của cơ sở, từ năm 2018 đến năm 2021, tổng thu của các cơ sở GDĐH tự chủ đa phần tăng lên, tổng thu ngoài ngân sách Nhà nước cấp chi thường xuyên cũng tăng; thu nhập bình quân tăng 20,8% đối với giảng viên và 18,7% đối với cán bộ quản lý. Giảng viên thu nhập trên 200 triệu đồng/năm tăng từ 19,4% lên 31,34%; thu nhập trên 300 triệu đồng trở lên tăng từ 0,75% lên 5,97% sau 3 năm thực hiện tự chủ.
Theo đánh giá của Bộ GD&ĐT, tự chủ đại học tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh; thúc đẩy các trường đầu tư vào điều kiện bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo để cạnh tranh trong tuyển sinh, thu hút sinh viên giỏi; hướng tới thực chất và phát triển bền vững.
Số liệu thống kê cho thấy, quy mô tuyển sinh sinh viên hệ đại trà có xu hướng giảm, tăng quy mô tuyển sinh các chương trình đào tạo tiên tiến, đào tạo chất lượng cao, liên kết đào tạo với nước ngoài và đào tạo bằng tiếng Anh. Đổi mới thi và tuyển sinh trung thực, khách quan nhưng nhẹ nhàng, giảm áp lực, tốn kém. Từ năm 2019-2021, các trường có nhiều phương thức để tuyển sinh.
Về khoa học và công nghệ, số lượng bài báo quốc tế trong danh mục Web of Science (WoS) tăng thêm 3,5 lần sau 4 năm; số bài báo trong danh mục SCOPUS của các cơ sở GDĐH tăng thêm hơn 4 lần. Sản phẩm của các đề tài, dự án, chương trình khoa học và công nghệ cấp bộ của các đơn vị trực thuộc Bộ đã tăng đáng kể trong các năm qua, trung bình 25%/năm.
Một số cơ sở GDĐH đã gặt hái được thành công thông qua kết quả về xếp hạng đại học ở các tổ chức xếp hạng uy tín trên thế giới. Năm 2022, Tổ chức giáo dục Quacquarelli Symonds (QS) công bố Bảng xếp hạng các trường đại học theo lĩnh vực. Ở lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ, Việt Nam có 5 đại học được xếp hạng cao trong tốp 500 thế giới; lĩnh vực kinh doanh và kinh tế theo Bảng xếp hạng Times Higher Education, Việt Nam có 2 đại diện; lĩnh vực khoa học xã hội, Việt Nam có 3 đại diện.
Tự chủ đại học là một phần quá trình đổi mới giáo dục
"Ở Việt Nam, quá trình thực hiện tự chủ đại học là một phần của quá trình đổi mới và hiện đại hoá, quốc tế hoá giáo dục đại học", Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh trong phát biểu khai mạc tại hội nghị.
Việc thực hiện tự chủ đại học ở Việt Nam diễn ra dưới sự chỉ đạo nhất quán, xuyên suốt thông qua các chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong 3 thập niên vừa qua và đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn, giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ được Đảng, Nhà nước coi là quốc sách hàng đầu, là một trong 3 đột phá chiến lược để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, trước mắt cũng như lâu dài. Đổi mới và phát triển giáo dục đại học là khâu, là phần quan trọng của nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đó.
Bộ trưởng nhấn mạnh, trường đại học hoạt động với tính tự chủ tự chịu trách nhiệm cao là mô hình và cơ chế phổ biến trên khắp thế giới. Điều này đã từng tồn tại lâu dài và sự ưu việt của nó đã được khẳng định trong thực tế hoạt động giáo dục bậc cao của nhân loại.
Ở Việt Nam, quá trình thực hiện tự chủ đại học là một phần của quá trình đổi mới và hiện đại hoá, quốc tế hóa giáo dục đại học, là một khâu trong sự chuyển đổi mô hình giáo dục đại học thời kỳ bao cấp và kế hoạch hoá sang thời kỳ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tự chủ đại học như một cuộc cách mạng để thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện GDĐH. Theo định hướng đổi mới đó, GDĐH đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt trong mấy năm thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH, nhiều cơ sở GDĐH đã và đang chuyển đổi dần cơ chế, từng bước thực hiện các quyền chủ động của mình.
Nhờ đó, các cơ sở GDĐH đã năng động hơn, năng lực cạnh tranh tốt hơn, cả hệ thống đại học đã có những chuyển biến mạnh mẽ cả nhận thức và hành động, cả lý luận và thực tiễn.
"Có thể nói, một luồng sinh khí mạnh mẽ đã xuất hiện từ bên trong của hệ thống và thúc đẩy các đại học phát triển. Giá trị và phương diện tích cực của tự chủ đại học là rõ ràng, là hiển nhiên và không thể phủ định được", Bộ trưởng Bộ GD&ĐT nhìn nhận.
Theo Bộ trưởng, tự chủ đại học là một cơ chế mới, phức tạp, cần đồng bộ của nhiều yếu tố, nhiều khâu, nhiều hoạt động. Vì vậy, trong quá trình triển khai, thời gian qua vẫn có những vướng mắc, còn bộc lộ những hạn chế, khó khăn và đó cũng là điều khó tránh khỏi.
Có những vướng mắc do hệ thống các văn bản quy định pháp luật làm nền tảng cho việc triển khai còn có những điểm chồng chéo, thiếu đồng bộ và nhất quán. Khó khăn, vướng víu do những thói quen cũ, cách nghĩ cũ, tư duy cũ. Vướng mắc do sự chia sẻ và đón nhận từ xã hội có chuyển biến chưa đồng bộ và tương thích.
Chính vì vậy, Bộ GD&ĐT đã phối hợp với Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Quốc hội tổ chức hội nghị về tự chủ đại học, để những người tham dự cùng nhau nhận thức sâu hơn, đầy đủ và thông suốt hơn về các vấn đề có liên quan, để cùng bàn về các vấn đề còn khó khăn, vướng mắc trong thực hiện. Ban Tổ chức hy vọng hội nghị có thể làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề quan trọng, cả ở tầm vĩ mô và vi mô, tầm chính sách và các vấn đề có tính kỹ thuật, cả nhận thức và hành động, cả vấn đề bên trong và vấn đề bên ngoài có liên quan./.