Trao đổi với phóng viên Tạp chí Người cao tuổi, cụ Nguyễn Thị Tứ cho biết: Cụ có một người con trai là ông Nguyễn Văn Lĩnh, 47 tuổi. Cả hai mẹ con là những người bị mù bẩm sinh. Năm 1963, gia đình cụ Tứ (gồm bố mẹ và anh trai cụ là Nguyễn Lệ Tâm) từ xã Nam Yên (nay là xã Xuân Hòa) lên khai hoang và sống tại xã Nam Hưng. Diện tích đất gia đình cụ đã khai hoang và sinh sống gồm phần đất xây dựng nhà ở, các công trình phụ và đất vườn, sử dụng ổn định, lâu dài, có phân chia ranh giới rõ ràng với những khu đất liền kề.

Đến năm 1993, cụ Tâm và vợ con mua khu đất khác và chuyển đến đất ở mới, để lại toàn bộ diện tích đất ở xóm Tiền Phong (nay là xóm Phong Sơn) cho cụ Tứ. Sự việc này có sự chứng kiến và thừa nhận của nhiều người, đặc biệt là vợ con của cụ Tâm cũng xác nhận.

Năm 2001, ông Lĩnh (con trai cụ Tứ) cưới vợ là bà Lê Thị Huệ. Cụ Tứ cho con dâu trồng gừng, riềng và nuôi gà ở phần đất vườn phía sau nhà. Bất ngờ, gia đình hàng xóm là bà Đặng Thị Huệ và ông Lê Thanh Châu yêu cầu bà Huệ (con dâu cụ Tứ) trả đất, với lí do diện tích đất trên, họ đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ).

Nhà và đất nơi gia đình cụ Nguyễn Thị Tứ đang sinh sống. Cụ Nguyễn Thị Tứ và ông Nguyễn Văn Lĩnh đều bị mù bẩm sinh.

anh-120250311091349-1741678951.jpg
Nhà và đất nơi gia đình cụ Nguyễn Thị Tứ đang sinh sống.

Quá trình hòa giải tại UBND xã Nam Hưng, vợ chồng ông Châu, bà Huệ trình bày nguồn gốc thửa đất tranh chấp: Tháng 10/1993, gia đình ông bà mua của ông Nguyễn Lệ Tâm một mảnh vườn đồi diện tích 8.185,5m2. Trong thời gian này, ông Châu, bà Huệ cho mẹ con chị Huệ - Lĩnh (vợ chồng con trai cụ Tứ) mượn một số diện tích đất rừng gần nhà để trồng sắn. Ông Châu, bà Huệ cung cấp “Đơn xin nhượng vườn ở” đề ngày 10/3/1993.

Ngày 25/9/2020, bà Huệ, ông Châu khởi kiện ra TAND huyện Nam Đàn yêu cầu bà Lê Thị Huệ trả đất.

Tháng 6/2021, cụ Nguyễn Thị Tứ có đơn yêu cầu độc lập về việc đề nghị Tòa án tuyên hủy GCNQSDĐ số: BS293319 ngày 10/12/2013 mà UBND huyện Nam Đàn đã cấp cho ông Lê Thanh Châu, Đặng Thị Huệ. Do đó, hồ sơ vụ án đã được TAND huyện Nam Đàn chuyển lên TAND tỉnh Nghệ An giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 9/11/2023, TAND tỉnh Nghệ An thụ lí vụ án dân sự số: 211/2023/TLST-DS về “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt”.

Ngày 16/10/2024, TAND tỉnh Nghệ An ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 227/QĐXXST-DS. Sau nhiều lần hoãn và tạm ngừng phiên tòa, TAND tỉnh Nghệ An đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm vào ngày 10/3/2025.

Luật sư Đinh Thị Thúy Hằng, Công ty Luật Amber, Đoàn Luật sư tỉnh Nghệ An, người trợ giúp pháp lí cho mẹ con cụ Nguyễn Thị Tứ, cho biết:

Thứ nhất, về lí do vì sao mẹ con cụ Tứ, ông Lĩnh (vợ là bà Lê Thị Huệ, bị đơn trong vụ án) không có giấy tờ về đất, không kê khai, không biết về việc đất của mình bị người khác lấn chiếm. Cụ Tứ và ông Lĩnh là người bị mù bẩm sinh. Giai đoạn từ năm 1993 trở về trước, hai mẹ con cụ sinh sống cùng bố mẹ và gia đình anh trai (cụ Nguyễn Lệ Tâm và vợ là cụ Nguyễn Thị Hồng) trên thửa đất mà hiện nay có một phần diện tích đất đang tranh chấp. Phần diện tích đất tranh chấp là do cả gia đình khai hoang, sử dụng, trước đây dùng trồng sắn, trồng rau, là diện tích đất vườn gắn với nhà ở chứ không phải là đất lâm nghiệp. Sau này bố mẹ mất đi, năm 1993, gia đình cụ Tâm chuyển nơi ở khác, để lại toàn bộ đất ở, đất vườn cho cụ Tứ. Tuy nhiên, do hai mẹ con bị mù nên không thể nhìn thấy hay biết được việc vườn của mình bị người khác chiếm, kê khai thành của họ. Chính quyền địa phương hoàn toàn không có bất kì hướng dẫn, hỗ trợ hay thông báo nào liên quan đến việc kê khai, làm giấy tờ đất. Quá trình cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng bà Đặng Thị Huệ, ông Lê Thanh Châu, mẹ con cụ Tứ không được biết, cũng không được hỏi ý kiến, hay kí/ điểm chỉ những người có đất liền kề. Đến năm 2001, ông Lĩnh lấy vợ (bà Lê Thị Huệ). Bà Huệ sáng mắt, mới canh tác trồng riềng ở phần diện tích này, và lúc đó mới xảy ra tranh chấp với vợ chồng bà Huệ, ông Châu.

anh-220250311091351-1741678976.jpg
Cụ Nguyễn Thị Tứ và ông Nguyễn Văn Lĩnh đều bị mù bẩm sinh.

Vợ và con cụ Tâm (anh trai cụ Tứ) là người trực tiếp khai hoang, sinh sống, sử dụng phần diện tích đất đang tranh chấp đến tận năm 1993 mới chuyển đi. Gia đình cụ Tâm để lại toàn bộ đất đai cho cụ Tứ (bằng miệng) là sự thật đã được chính vợ con cụ Tâm xác nhận và không có bất kì tranh chấp nào. Do đó, TAND và UBND các cấp yêu cầu mẹ con cụ Tứ cung cấp giấy tờ về đất đai là không thể.

Thứ hai, về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất đối với diện tích đất tranh chấp. Bà Huệ, ông Châu là người đứng đơn khởi kiện. Theo Bộ luật Tố tụng dân sự, bà Huệ, ông Châu có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình. Tuy nhiên, từ giai đoạn hòa giải, tại TAND huyện Nam Đàn, bà Huệ trình bày nguồn gốc của diện tích đất đang tranh chấp là nhận chuyển nhượng từ cụ Tâm từ năm 1993, với “Đơn xin nhượng vườn ở”, cùng những người làm chứng về việc mua bán diện tích đất tranh chấp.

UBND xã Nam Hưng cũng nhiều lần có văn bản xác nhận nguồn gốc 1.533,5m2 đất tranh chấp là do cụ Tâm khai hoang, sử dụng. Tuy nhiên, sau đó vợ chồng bà Huệ, ông Châu và UBND xã Nam Hưng lại phủ nhận toàn bộ trình bày và các tài liệu, chứng cứ do chính mình đã cung cấp. Dựa theo trình bày và hồ sơ cấp GCNQSDĐ mà UBND huyện Nam Đàn đã cung cấp, bà Huệ trình bày lại về nguồn gốc của đất tranh chấp là “Nhà nước giao theo Nghị định: 163/1999/NĐ-CP của Chính phủ”.

Ông Châu và bà Huệ không có giấy tờ gì chứng minh trước năm 1997 đất này là của họ? Họ lấy đất từ đâu để trồng cây rồi kê khai để được cấp bìa đỏ như vậy?

UBND xã Nam Hưng, UBND huyện Nam Đàn không có bất kì tài liệu, hồ sơ địa chính nào lưu trữ làm căn cứ xác định nguồn gốc diện tích đất này từ năm 1993 trở về trước nguồn gốc thế nào, có phải thuộc quỹ đất rừng hay không.

Theo quy định pháp luật, trong trường hợp không có một trong các loại giấy tờ theo quy định của Luật Đất đai thì phải có ý kiến của UBND cấp xã về thời điểm bắt đầu sử dụng đất và mục đích sử dụng đất trên cơ sở thu thập ý kiến của những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng đất.

UBND xã Nam Hưng trả lời: Nguồn gốc thửa đất này từ năm 1993 trở về trước xã không có hồ sơ, giấy tờ nên không biết. Vì vậy, cần thiết phải thực hiện việc “lấy ý kiến khu dân cư về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất” đối với đất đang tranh chấp. TAND tỉnh Nghệ An cần thiết thực hiện việc xác minh, thu thập chứng cứ quan trọng này.

Thứ ba, nhiều vấn đề trong hồ sơ chưa được làm rõ. TAND tỉnh Nghệ An chưa tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để làm căn cứ giải quyết vụ án đúng pháp luật, khách quan, toàn diện. Cụ thể:

- Các đề nghị về triệu tập người làm chứng là những người dân cùng thời kì biết về nguồn gốc đất không được xem xét;

- Nhiều nội dung lời khai, tài liệu chứng cứ khác còn có nhiều mâu thuẫn chưa được xác minh, không tiến hành đối chất;

- Xác định rõ nguồn gốc đất đang tranh chấp như thế nào? Ai là người khai hoang mảnh đất này, khai hoang từ thời điểm nào? Gia đình cụ Tâm (anh trai cụ Tứ) đã sinh sống, quản lí, sử dụng mảnh đất từ thời điểm nào?

- Làm rõ quy trình cấp GCNQSDĐ của UBND huyện Nam đàn cho gia đình bà Huệ, ông Châu một cách cụ thể. Trình tự thủ tục cấp đất ra sao? Những hộ liền kề có biết và có kí giáp ranh khi ông Châu, bà Huệ làm thủ tục cấp bìa đỏ hay không? Xác minh làm rõ UBND huyện Nam Đàn giao đất theo căn cứ pháp luật nào (văn bản pháp luật nào, điều - khoản - điểm cụ thể), lấy quỹ đất nào để giao? Năm 1997 trở về trước, đất thuộc quyền quản lí sử dụng của ai? Sử dụng mục đích gì? Diện tích đất này thuộc quy hoạch đất rừng từ năm nào?

Luật sư Đinh Thị Thúy Hằng cho rằng: “Toàn bộ các nội dung chưa được làm rõ này, Viện KSND huyện Nam Đàn và chúng tôi đã đề nghị, nhưng đến nay TAND tỉnh Nghệ An không xem xét, giải quyết. Viện KSND tỉnh Nghệ An không có bất kì ý kiến, đề nghị nào”.

Trước sự việc như trên, mong rằng các cơ quan chính quyền, UBND xã Nam Hưng, UBND huyện Nam Đàn, TAND tỉnh Nghệ An xem xét khách quan, toàn diện theo quy định pháp luật để giải quyết vụ án hợp tình hợp lí, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người dân, nhất là người cao tuổi bị mù lòa bẩm sinh.