Chuyến đi vào Huế năm đó hết sức vất vả. Mọi người phải đi bằng dép mo cau, một lúc rách là thay đôi khác. Bé Tất Thành lúc đó mới năm tuổi được bố cõng trên lưng. Trên cao, bé quan sát hỏi hết chuyện này đến chuyện khác còn Nguyễn Sinh Khiêm chẳng thấy vui bởi chân bị rộp. Đến đoạn đường bằng, bé Thành chạy tung tăng hỏi nhiều thứ.
 
Lúc đến chân Đèo Ngang, đường sát biển hơn không như bây giờ. Đến chân đèo có bãi cỏ bằng phẳng, bà Loan đặt gánh xuống, cụ Sắc xếp ô lại bảo:
 
- Hãy nghỉ lại ăn cơm rồi vượt đèo.
 
Bé Thành hỏi cha:
 
- Thưa cha, cái gì mà lại ngoằn nghoèo như rứa?
 
Cụ Sắc giải thích:
 
- Đó là con đường mòn vắt qua đèo, tý nữa ta phải đi qua đó. Bé Thành ứng khẩu đọc bài thơ. Sau này cụ Khiêm ghi lại trong “Tất Đạt tự ngôn”. Bài thơ như sau:
 
Núi cõng con đường mòn
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Đường bám lì lưng núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hòn núi
Con đường lười hơn con
 
 
Trong bài thơ này, cái gì thuộc về thiên nhiên là tĩnh, cái gì thuộc về con người là động. “Núi cõng con đường mòn”, “Đường bám lì lưng núi” là tĩnh. “Cha thì cõng theo con”, “Con tập chạy lon ton” là động. Thơ hay bởi cái thần. Lời ngộ nghĩnh của đứa bé điều đó dễ hiểu.
 
Trở lại câu chuyện về chuyến đi. Anh cả Khiêm thì rộp chân, nhăn nhó còn bé Thành thì chạy nhảy, hỏi cha nhiều chuyện.
 
- Cái gì kia sao lại rộng thế tựa như chiếc ao lớn hở cha?

Cụ Sắc giải thích:
 
- Không phải là ao đâu con ạ! Đó là biển đấy!
 
Lúc đó đứng trên Đèo Ngang là nhìn thấy biển. Ở đây đi xuống là đến Ròn - tức Cảnh Dương của Quảng Bình. Lần đầu tiên thấy biển bé Thành cứ tưởng là ao. Cụ Sắc nhắc lại là biển. Bé Thành lại hỏi:
 
- Cha ơi, tại sao bò lại lội trên biển?
 
- Không phải bò đâu con, đó là cánh buồm nâu nhờ gió đẩy nên thuyền mới chạy được trên biển đấy!
 
Bé Thành ứng khẩu đọc bài thơ thứ hai:
 
Biển là ao lớn
Thuyền là con bò
Thuyền ăn no gió
Lội trên mặt nước
Em nhìn thấy trước
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn.
 
 
Câu chuyện về bài thơ thứ ba của Nguyễn Tất Thành, theo lời kể của cụ cả Khiêm thì cụ Nguyễn Sinh Sắc ở xóm Du Đông gần dinh cụ Thượng - sau này gọi là cụ Quận, tức là quận công Hoàng Cao Khải ở ấp Thái Hà. Hoàn cảnh bài thơ thứ ba đều do cụ Lê Thước kể lại:
 
.... Hôm đến dinh Hoàng Cao Khải để ăn mừng khánh thành dinh quận công có mời các quan sở tại đầu tỉnh cho đến huyện. Trên cái sân lớn, ngoài có bồn hoa. Đám trẻ con cứ nhìn qua khe hở bức tường thấy các quan ngồi uống rượu, đọc bình thơ mừng quan xây xong dinh, đặc biệt có cái bể cạn rất lớn trong đó có núi non bộ rất cao, cây si đến hàng trăm tuổi, có tượng ba ông lão nho nhỏ. Nghe các quan đọc thơ, đám học trò đứng ngoài nói to:
 
- Các quan làm thơ dở quá!
 
Nghe thế, Hoàng Trọng Phu (con cả Hoàng Cao Khải) ra quát lũ trẻ. Một số bỏ chạy. Nguyễn Tất Thành (13 tuổi) chạy nhưng chậm thôi. Lúc đó Hoàng Cao Khải mới can:
 
- Thôi, đừng nạt các cháu, nhà mình đang có chuyện vui lớn. Các cháu đến mà đuổi đi thì dân làng người ta cười cho. Cháu nào khi nãy chê thơ bây giờ vào làm bài thơ ông thưởng.
 
Đám trẻ quay lại. Ông Khải nói tiếp:
 
- Đứa nào khi nãy chê thơ các quan bây giờ vào đọc thơ dù có dở ông cũng thưởng.
 
Các quan thấy đám trẻ cùng chạy ra. Nguyễn Tất Thành nhìn thấy tượng ba ông phỗng ở trên núi non bộ liền nói:
 
- Thưa cụ, cháu đọc bài thơ ứng khẩu này nếu có sai thì cũng đừng phạt cháu.
 
Ông Khải nói:
 
- Cháu cứ đọc đi, ông không phạt đâu.
 
Tất Thành đọc:
 
Kìa ba ông lão bé con con
Biết có tình gì với nước non
Trương mắt làm chi ngồi đó mãi
Hỏi xem non nước mất hay còn?
 
Thơ ứng khẩu của Bác Hồ thời niên thiếu sáng tác trong hoàn cảnh khác nhau đều có chung một khẩu khí, một nhân cách mà hiếm người có được.
 
Sau này, Bác ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân tộc ra khỏi ách nô lệ là đã (vượt qua ao lớn) để mang lại độc lập tự do cho dân tộc. Phải chăng tầm tư tưởng đó khởi nguồn từ ba bài thơ nói trên của NGƯỜI./.