Vụ việc bị can Nguyễn Phương Hằng bị khởi tố, bắt tạm giam về tội Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đang nhận được sự quan tâm lớn từ dư luận.

Mới đây, bà Hằng và gia đình có đơn gửi cơ quan tố tụng đề nghị xin được bảo lãnh tại ngoại sau thời gian bị tạm giam từ ngày 24/3/2022 đến nay. Theo đơn, bà Nguyễn Phương Hằng đã có nhiều đóng góp trong hoạt động từ thiện, nhân đạo, nhất là trong đại dịch Covid-19. Gia đình muốn bảo lãnh bị can ra ngoài để được điều trị bệnh.

28842033633911077677871186625337912029588652n-1660898547003-1665794457085-1665904186.jpg
Bà Nguyễn Phương Hằng xin tại ngoại (Ảnh: A.X).

Trước thông tin trên, độc giả Dân trí thắc mắc, việc bị can này lấy lý do rằng bản thân và gia đình có nhiều đóng góp trong hoạt động từ thiện, nhân đạo để xin được bảo lãnh ra ngoài để điều trị bệnh có nằm trong quy định của luật không?

Giải đáp băn khoăn trên, Luật sư Trần Xuân Tiền, Trưởng văn phòng luật sư Đồng Đội, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội cho biết, tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất được quy định tại Điều 119 trong BLTTHS năm 2015 do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo. Việc này nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ rằng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội và để bảo đảm cho việc thi hành án.

Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân được quy định tại Điều 8 Bộ luật tố tụng hình sự, các biện pháp ngăn chặn được áp dụng, hủy bỏ và thay đổi dựa trên hai tiêu chí cơ bản được áp dụng để đánh giá: tính hợp pháp và/hoặc sự cần thiết.

Cụ thể, theo quy định tại Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự, biện pháp tạm giam có thể được thay thế bằng biện pháp bảo lãnh. Theo đó, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lãnh.

Như vậy, việc thay thế biện pháp ngăn chặn đối với bị can từ tạm giam sang bảo lãnh phụ thuộc vào quyết định của cơ quan tố tụng. Nếu xét thấy tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đến mức nghiêm trọng và bị can có nhân thân tốt thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể xem xét thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị can.

"Làm từ thiện nhiều" có là căn cứ để được xét tại ngoại?

Luật sư Tiền cho biết, đối với trường hợp của bà Phương Hằng, cơ quan điều tra sẽ tiến hành xem xét các thông tin trong đơn xin tại ngoại do ông Nguyễn Quang Tuấn (32 tuổi, ngụ quận 7, là con trai của bị can Nguyễn Phương Hằng) đứng đơn. Cụ thể, xác định về nhân thân (chưa có tiền án, tiền sự); các đóng góp trong hoạt động từ thiện, nhân đạo nhất là trong đại dịch Covid-19, có nơi cư trú rõ ràng,...

Về thắc mắc của độc giả, việc bà Phương Hằng lấy lý do rằng bản thân và gia đình có nhiều đóng góp trong hoạt động từ thiện, nhân đạo để xin được bảo lãnh ra ngoài điều trị bệnh có nằm trong quy định của luật không? Theo Luật sư Tiền, khoản 1 Điều 51 BLHS không quy định cụ thể "làm từ thiện nhiều" là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, khoản 2 Điều này quy định, khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác (tình tiết không quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS) là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

Vì vậy, về mặt lý thuyết, khi bị cáo làm từ thiện nhiều thì HĐXX vẫn có quyền xem xét để xác định đó có phải là tình tiết giảm nhẹ hay không, nếu có thì ghi rõ lý do. Còn việc lấy lý do làm từ thiện nhiều để xin tại ngoại thì không có căn cứ pháp luật nào quy định cho việc này.

Đối với việc trong đơn thể hiện bà Hằng đã nhận thức được sai phạm, thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải và cam kết không tái diễn hành vi sai phạm đúng như nhận định của người con thì phải phụ thuộc vào đánh giá của cơ quan điều tra và viện kiểm sát.

Đối với lý do xin tại ngoại để chữa bệnh, cơ quan chức năng sẽ phải chỉ đạo tổ chức khám bệnh cho bà Phương Hằng để xác định tình trạng của bà Hằng nhằm xem xét có thay đổi biện pháp ngăn chặn không. Nếu rơi vào trường hợp bệnh nặng hoặc có dấu hiệu bệnh như tâm thần hoặc mất năng lực về hành vi thì phải trưng cầu giám định.

Nếu kết quả trưng cầu giám định thể hiện bị can hạn chế về năng lực hành vi hoặc là có dấu hiệu tâm thần thì phải thực hiện chữa bệnh bắt buộc. 

Bên cạnh đó, cơ quan chức năng còn phải xem xét điều kiện của ông Nguyễn Quang Tuấn có đáp ứng các quy định tại khoản 2 Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự hay không?

Cụ thể, người bảo lãnh phải đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lãnh thì có thể nhận bảo lãnh cho bị can là người thân thích (gồm vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột) và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lãnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.

Trong giấy cam đoan, cá nhân nhận bảo lãnh phải cam đoan không để bị can vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 121 Bộ luật tố tụng hình sự. Cá nhân nhận bảo lãnh được thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc nhận bảo lãnh.

Trong trường hợp được bảo lãnh, bà Phương Hằng phải có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này./.