Ngày hôm qua, huyện Diễn Châu đã họp thống nhất về dự kiến tên gọi 8 xã mới sau sáp nhập để lấy ý kiến cử tri. Các xã mới là: Diễn Châu, An Châu, Tân Châu, Đức Châu, Quảng Châu, Minh Châu, Hải Châu, Hùng Châu. Theo huyện, thì “8 xã mới của huyện Diễn Châu sẽ giữ được danh xưng “Diễn Châu “, giữ được từ “Châu” để dễ nhận diện, nhớ về cội nguồn “Diễn Châu”.

Đặt tên như nào là do toàn thể cán bộ và nhân dân huyện nhà, em ko zám bàn đến, mà chỉ muốn phân tjk rõ hơn về chữ “Châu” để mọi người zải trý.

Chữ “Châu” thực ra là 1 khu vực hành chánh, do người Tàu đặt ra. Ngày xưa, người Tàu chia đất ra từng khu, lấy núi sông làm mốc, gọi là châu. Nên ko lạ khi Tàu họ có hàng loạt địa danh có phụ tố “Châu” như: Tô Châu, Hàng Châu, Quảng Châu… hay ai xem phim Tam quốc thì sẽ dễ dàng nhớ đến: Kinh Châu, Ích Châu, U châu… Còn nước ta khi đó là Giao Châu, thuộc Đông Ngô cai trị.

Chữ “Châu” này thường được dùng như một phần bổ sung cho tên gọi của các địa danh, giúp phân biệt các khu vực khác nhau, nhưng vẫn giữ được sự liên kết với một cái tên chung. Diễn Châu (tên cũ của Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành, Nghĩa Đàn hiện nay), Hoan Châu (tên cũ của Nghệ An), Ái Châu (tên cũ của Thanh Hoá)… được đặt ra dưới thời Bắc thuộc, khi đó nước ta thuộc nước Tàu, nên Tàu họ đặt tên kiểu Trung Hoa cũng là điều dễ hiểu.

Tuy nhiên, phụ tố “Châu” này người Việt vẫn kế thừa sang khi bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ, nên nhiều vùng nước ta vẫn đặt theo kiểu nói trên, như:

Mật Châu (tên cũ của Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn),

Ô châu (tên cũ của vùng đất từ đèo Lao Bảo đến lưu vực sông Thạch Hãn ở phía nam tỉnh Quảng Trị),

Lý Châu (tên cũ của Thành phố Huế, Thành phố Đà Nẵng) sau đổi là Hoá Châu.

À có 1 cái ni nhiều người nhầm, nay xin được chỉ rõ: Trước thế kỷ 15, Diễn Châu và Nghệ An châu là 2 đơn vị ngang hàng nhau, vì cùng là cấp “châu”. Sang đến thời Lê sơ, thì triều đình mới nhập Diễn Châu vào Nghệ An (kiểu như Hà Tây và Hà Nội là 2 đơn vị hành chính tương đương, sau 1 tháng 8 năm 2008 thì Hà Tây nhập vào Hà Nội). Khi đó Diễn Châu chính thức trở thành 1 phủ trong đạo Nghệ An.

Cần phân biệt chữ “Châu” với các từ khác như “Tỉnh”, “Huyện”, “Xã”. Trong khi “Tỉnh” và “Huyện” thường chỉ các cấp hành chính cụ thể, “Châu” lại mang tính chất tổng quát hơn (thực ra là mông lung hơn) khi nó thường dùng để chỉ các khu vực rộng lớn hơn, có thể bao gồm nhiều huyện, xã.

Và vì nó là 1 khu vực hành chính, nên ta cũng dùng phụ tố “Châu” để gắn các địa danh, như châu Ngọc Ma, châu Phục Lễ, châu Trà Trân, châu Bố Chính…

Chính vì vậy, trong 2 chữ “Diễn Châu” thì “Diễn” là trung tâm ngữ, tức chữ chính, còn “Châu” là chữ phụ, bởi đây là chữ chỉ để chữ chính gắn vào. Phân biệt: Diễn Châu, Hoan Châu, hay Ái Châu… là ở chữ đầu, chứ “Châu” thì ở đâu cũng có cả.

Ta thấy rõ điều này bởi Diễn Châu hay được gọi là phủ Diễn, chứ ko phải phủ Châu. Hay như niềm tự hào lớn của người Nghệ An trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông đó là được vua Trần Nhân Tông tin tưởng, thể hiện ở câu thơ:

會稽舊事君須記,

驩演猶存十萬兵。

Cối Kê cựu sự quân tu ký,

Hoan Diễn do tồn thập vạn binh.

Vua Trần Nhân Tông có nói rõ là: Hoan và Diễn, chứ ko nói là Hoan và Châu. Chính vì vậy, “Diễn” là để nhận diện “Diễn Châu”, chứ “Châu” thì ko thể làm việc đó.

Nên là, trước đây, ông cha ta đã dùng chữ “Diễn” làm chữ chính để đặt tên các xã của Diễn Châu theo hình thức phụ tử liên danh, là: Diễn Kỷ, Diễn Thành, Diễn Tháp, Diễn Bình, Diễn Nguyên… Chứ ko phải là Kỷ Châu, Thành Châu, Tháp Châu, Bình Châu, Nguyên Châu…

Nhân đây xin giới thiệu đến mọi người 1 sự thú vị trong lịch sử, đó là đầu thế kỷ 11, người dân ở 2 châu là châu Diễn (Quỳnh Lưu, Yên Thành, Diễn Châu, Nghĩa Đàn) và châu Hoan (Nghệ An và Hà Tĩnh hiện nay) rất hay làm phản, chống lại triều đình.

Năm Nhâm Tí (1012), vua Lý Thái Tổ tự làm tướng cầm quân đi đánh châu Diễn. Khi quân về đến cửa Biện, gặp cơn gió mưa mờ mịt, sấm chớp ầm ầm, mọi người đều sợ có sự bất trắc. Vua liền thắp hương, khấn trời như ri: 自已菲德,忝居民上,慄慄危懼,若將陷于深淵,飛敢自恃兵威,妄行征伐。特以演州之人,不遵厥化,逞行昏暴,殘忍小民。罪惡貫盈,於今不容不草。至於兵刃交攻之際,或枉傷忠孝,或誤害賢良,智使皇天震怒,以彰其過,雖遭傾隕,亦無憾焉。其在六軍,罪猶可恕。唯簡在上帝之心。Em xin zịch sang tiếng Việt như sau: Tôi nhận thấy mình ít đức, thẹn vì ở trên muôn dân, rất chi lo lắng sợ sệt, như thể sắp rơi xuống vực sâu, nên chẳng zám ỷ mình quân đông, mà tuỳ ý đi chinh phạt. Nhưng vì người ở Diễn châu, ko theo záo hoá, tuỳ tiện với hành động hung tàn, ác nghiệt với lê dân nhỏ bé, tội ác đã chất chồng, nay ko thể ko đánh. Nên trong lúc giáo gươm xô xát, hoặc giết oan người trung hiếu, hoặc hại nhầm kẻ hiền lương, đến nỗi trời xanh giận dữ, chỉ rõ lỗi lầm của tôi, thì dù gặp phải tai ương, tôi cũng ko hề oán trách. Còn đối với sáu quân, tội ấy xin lượng thứ. Thực mong lòng trời soi xét.

Vua Lý Thái Tổ vừa khấn xong, quả nhiên biển Diễn Châu sóng yên bể lặng, trời Diễn Châu mưa tạnh gió tan.