Dù đi khắp từ Nam chí Bắc, ăn chả thiếu loại cao lương mĩ vị nào, từ món dân giã đến món cao cấp như tôm hùm hào sữa... nhưng tôi vẫn ghiền món cá thu nướng của vùng biển xứ Nghệ. Những miếng cá to hơn bàn tay xòe, nướng vàng thơm nưng nức, chỉ cần chén nước chè xanh, mấy thìa nước mắm nhĩ, muỗng tiêu, muỗng đường, riu riu lửa cho cạn nước, ăn với cơm gạo quê dẻo ngọt thì thôi rồi, vừa bùi vừa ngọt vừa đậm đà, ngon nhức cả răng.
Ai trong quan niệm cũng nghĩ xứ Nghệ quê tôi là xứ quê nghèo khổ, nắng gió khát khô, chó ăn đá gà ăn sỏi, với lời ca "Quê Nghệ nghèo đành bạt xứ tha hương".
Đúng một phần nào thôi.
Đúng là quê tôi khí hậu khắc nghiệt, nắng thì xắn được, gió lào rờ nơi mô cũng khô, rét thì chả có gì mà không sun lại. Dải đất như eo đòn gánh luôn chịu nhiều sức nặng của trời, của đất, của người. Nhưng cũng vì vậy mà những thứ được sinh ra từ đó đã trở thành đặc sản.
Người xứ tôi mạnh mẽ, chịu thương chịu khó. Con gái xứ Nghệ xinh đẹp, vẻ đẹp khỏe mạnh mặn mòi không kém phần duyên dáng và kỳ lạ là mang rất nhiều nét của Pháp với mắt to, mũi cao.
Tình cảm người xứ Nghệ ấm áp chân tình. Ai đã từng yêu con gái xứ Nghệ sẽ cảm nhận được sự nồng nàn mạnh bạo lại rất hy sinh chung tình, thật đấy!
Cả phong cảnh cũng vậy.
Quê Nghệ có nhiều cảnh đẹp nên thơ của biển, của rừng, của trung du, hải đảo, đủ cả, vẻ đẹp còn đậm chất hoang sơ, đang ít sự can thiệp của bàn tay con người.
Tôi bắt đầu trưởng thành đã xa quê, mấy mươi năm hễ có điều kiện, chỉ muốn quẩy về quê. Hồi đầu cứ nghĩ là do nhớ cha nhớ mẹ. Sau nghĩ hay tại mình yêu quê quá? Đâu phải mình không có điều kiện để đi du lịch khắp nơi đâu. Nhưng cứ thích về quê là sao?
Về để ngắm cảnh quê, để nói tiếng quê, để ăn cơm quê. Càng về càng thấm câu ca dao:
" Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Nghệ thì vô..."
Vô xứ Nghệ để mà nghe những điệu dân ca ngọt đến nỗi phải than: “Chơ hấn ăn chi mà hát lại ngọt thấu xương vậy trời.” Vô xứ Nghệ để thưởng thức những món đặc sản dân giã được chắt từ nắng khét, mưa tuôn, từ rét cong đòn gánh, gió khô mái đồi.
Những món ăn mang đậm chất Nghệ để nuôi lớn những ông nghè ông tổng, những thi sĩ, anh hùng, để rồi ai đi cũng đau đáu trở về, đi vì đất chật người đông, mưu sinh khốn khó, chứ không phải lìa quê vì chán quê.
Đi để mong được trở về úp mặt vào dòng sông quê. Để thao thức nỗi nhớ:
"Ai biết nước sông Lam răng là trong là đục
Thì biết sống ở đời răng là nhục là vinh.."
Đi để quay về biết thế nào là hương vị quê hương, là dưa mùng muối chấm ruốc. Hay dưa mùng muối chua nấu canh cá tràu thêm vài lát ớt đỏ, chút lá mùi tàu là ăn đến thủng cả nồi cơm mà quên lời thề giữ dáng!
Là bữa cơm canh cua đồng nấu khế với đĩa rau muống luộc xanh um cùng bát tương vàng sóng sánh thơm thảo tình mẹ.
Quê tôi nhiều thứ ăn rất ngon, có thứ vùng khác cũng có. Nhưng có lẽ do thổ nhưỡng khí hậu nên hương vị rất khác khi được chế biến thành món ăn.
Ví như các món ăn từ lươn. Lươn thì ở đâu chả có, nhưng lươn xứ Nghệ đã trở thành thương hiệu. Người xứ Nghệ đã mang đặc sản ẩm thực về lươn quê mình đến nhiều vùng trong đất nước.
Nhưng phải về chính quê ăn mới ngon. Có lẽ ăn trong gió, trong nắng, trong hơi thở quê chăng?
Hồi đó, nhà tôi ngay đầu làng, trước nhà là cái ao thả cá, tiếp đó là dãy ruộng cũng thuộc bờ xôi ruộng mật. Có rất nhiều tôm cá lươn cua ốc... Bắc nồi cơm lên bếp, bảo chưa có đồ mặn, cô em út chỉ mò một hồi quanh ao và bờ ruộng thể nào cũng có cá, cua, ốc đem vào. Vậy là có bữa ăn đầy đủ dinh dưỡng ngay.
Buổi sáng mấy người đi đặt ống trúm ở ao nhà tôi và bác cả. Mẹ tôi hay gọi để mua lươn của họ.
Bữa nào lươn to mẹ cắt khúc, khía bỏ xương sống, trở sống dao giằn thành những miếng bằng 3 ngón tay, ướp nghệ, tiêu, mắm, bột ngọt, quấn lá lốt chiên giòn thơm nức mũi.
Bữa thì mẹ đem om với gộc chuối, thứ gộc chuối hột, đào lên, rửa sạch, ngâm nước vo gạo trắng hồng, xắt sợi, muối chua giôn giốt, giòn giòn, đem om với lươn nêm chút nghệ với ớt và rau răm, đảm bảo chả có thứ sơn hào hải vị lưu trong trí nhớ lâu vậy đâu.
Nhưng mẹ hay nấu cháo. Gạo quê sôi sùng sục, mùi cháo dậy ngát cả hiên nhà, con gì trong bụng cứ cựa quậy réo lên đưa bước chân và mọi giác quan hướng về nơi gian bếp của mẹ.
Mẹ cầm con lươn đã làm sạch nhớt nhưng còn sống nhăn ghé vào nồi cháo, dùng dao cứa khẽ vào cổ con lươn cho huyết lươn chảy hết vào cháo. Mẹ bảo thế mới ngọt, rồi mẹ nhẹ nhàng thả con lươn đã khô huyết vào nồi.
Sau một hồi sôi lục bục, nồi cháo bốc mùi thơm ngào ngạt. Con lươn được mẹ vớt ra khỏi nồi cháo chín nứt nhóng nhánh. Mẹ một tay kẹp đầu con lươn. Một tay cầm đũa kẹp cổ con lươn kéo nhẹ xuống, những mảnh thịt lươn vàng ươm khoanh tròn trong dĩa. Loáng cái trong tay mẹ chỉ còn khúc xương sống lươn dài ngoằn.
Mỗi đứa một bát cháo lươn nghi ngút khói nóng húp xì xụp. Cháo nhừ thơm mùi gạo, lươn mềm nhưng dai và không bở, cứ như lụa trong miệng, không hề tanh mà ngọt lừ béo bùi thêm chút ớt tiêu cay cay, chút rau răm và ngò gai mẹ thái rí cùng lát chanh là lũ chúng tôi xuýt xoa ăn chảy cả nước mắt nước mũi. Để khi ăn xong thấy trời cao hơn, mây nắng vàng hơn...
Chúng tôi đã yên bình lớn lên trong vòng tay cha mẹ với những món ăn dân dã thơm thảo từ bàn tay tảo tần khéo léo của mẹ. Để rồi lớn lên làm những cánh thiên di, nhớ về quê, nhớ về mẹ. Hương vị những món ăn của mẹ ngày nao đã trở thành đặc sản. Niềm thương nỗi nhớ này dành cả cho mẹ, cho quê.