Liên quan đến bệnh đậu mùa khỉ, ngày 26/7, Hội đồng chuyên môn (Bộ Y tế) đã tổ chức cuộc họp nghiệm thu "Hướng dẫn Chẩn đoán và điều trị bệnh đậu mùa khỉ ở người" với sự tham dự của các chuyên gia hàng đầu trong cả nước.
TS. Nguyễn Trọng Khoa, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám chữa bệnh (Bộ Y tế) cho biết, trên thế giới đến nay đã ghi nhận hơn 16.000 ca mắc đậu mùa khỉ tại 75 quốc gia. Tại khu vực Đông Nam Á, một số nước cũng đã ghi nhận ca bệnh đậu mùa khỉ như Campuchia, Thái Lan, Singapore…
Hiện nay, Việt Nam chưa ghi nhận ca bệnh nhưng nguy cơ xuất hiện ca bệnh là rất cao. Vì thế, việc nghiên cứu, ban hành ngay hướng dẫn chẩn đoán, điều trị để phát hiện sớm những ca đầu tiên là cần thiết, ông Khoa nói.
Tại cuộc họp, các bác sĩ, chuyên gia cũng cho hay, việc xây dựng các nội dung trong Hướng dẫn được tham khảo từ thực tế các trường hợp bệnh cụ thể của đồng nghiệp trên thế giới, kinh nghiệm điều trị bệnh truyền nhiễm tại Việt Nam và hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) hay các tổ chức uy tín khác.
Theo đó, các chuyên gia đã xác định có 4 giai đoạn trong diễn biến bệnh đậu mùa khỉ. Giai đoạn ủ bệnh kéo dài từ 6 -13 ngày, người nhiễm không có triệu chứng và không có khả năng lây nhiễm;
Giai đoạn khởi phát (từ 1 - 5 ngày), các triệu chứng chính là sốt và nổi hạch ngoại vi toàn thân. Kèm theo người bệnh có thể có biểu hiện đau đầu, mệt mỏi, ớn lạnh, đau họng, đau cơ. Virus có thể lây sang người khác từ giai đoạn này.
Giai đoạn toàn phát, đặc trưng là sự xuất hiện của các ban trên da, thường gặp sau sốt từ 1- 3 ngày. Phát ban có xu hướng ly tâm, gặp nhiều trên mặt, lòng bàn tay, lòng bàn chân. Ban cũng có thể gặp ở miệng, mắt, cơ quan sinh dục;
Giai đoạn hồi phục, các triệu chứng có thể kéo dài từ 2 đến 4 tuần rồi tự khỏi. Người bệnh hết các triệu chứng lâm sàng, các sẹo trên da có thể ảnh hưởng đến thẩm mỹ và không còn nguy cơ lây nhiễm cho người khác.
Các chuyên gia cũng thống nhất chia các thể lâm sàng của bệnh nhân mắc đậu mùa khỉ thành 3 thể: Không triệu chứng, nhẹ và nặng. Ở thể nhẹ, các triệu chứng thường hết sau 2 đến 4 tuần mà không cần bất kỳ biện pháp điều trị đặc hiệu nào.
Ở thể nặng, bệnh thường gặp trên nhóm đối tượng nguy cơ cao (phụ nữ mang thai, người cao tuổi, trẻ em, người mắc bệnh lý nền, suy giảm miễn dịch,…), có thể dẫn tới tử vong, thường từ tuần thứ 2 của bệnh. Bệnh nhân có thể bị nhiễm khuẩn da, với biểu hiện có sốt kéo dài, dịch nốt phỏng đục hoặc nốt phỏng bị vỡ chảy dịch đục. Xét nghiệm các markers nhiễm trùng tăng cao; cấy dịch nốt phỏng có vi khuẩn. Ngoài ra, bệnh nhân cũng có thể bị viêm phổi với các triệu chứng như ho, tức ngực, khó thở; Viêm não,…