Điều 19 của Nghị định trên nêu rõ các trường hợp áp dụng biện pháp yêu cầu xóa bỏ thông tin trên không gian mạng gồm: Khi thông tin được cơ quan có thẩm quyền xác định là xâm phạm an ninh quốc gia, tuyên truyền chống Nhà nước; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh và gây rối trật tự công cộng; Khi có căn cứ pháp luật xác định thông tin có nội dung làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lí kinh tế; bịa đặt, sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho hoạt động KT-XH đến mức phải xóa bỏ thông tin.
Các thông tin khác có nội dung quy định tại điểm c, đ, e khoản 1 Điều 8 Luật An ninh mạng gồm: Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mĩ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.
Cũng theo Nghị định 53/2022/NĐ-CP, mạng máy tính truyền đưa bí mật Nhà nước phải tách biệt vật lí hoàn toàn với mạng máy tính kết nối Internet. Cụ thể, mạng máy tính của cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị ở Trung ương và địa phương phải xác định rõ hệ thống mạng thông tin và thông tin quan trọng cần ưu tiên bảo đảm an ninh mạng…
Nghị định cũng quy định trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp yêu cầu xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật trên không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân…/.