Mỹ và Nga đã trao đổi công hàm gia hạn với thời hạn 5 năm Hiệp ước START mới, nhưng liệu thành tựu này có nên được coi là sự khởi đầu của một thời kỳ mới trong quan hệ Nga - Mỹ ở lĩnh vực kiểm soát vũ khí?

Lập luận chống lại việc gia hạn START mới ở Mỹ

Ngày 3/2/2021, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố một tài liệu, trong đó các lập luận của những người phản đối việc gia hạn Hiệp ước được trích dẫn, chẳng hạn như START mới được cho là dựa trên Chiến tranh Lạnh và không phù hợp với bối cảnh chiến lược hiện tại; việc gia hạn hiệp ước cho phép Trung Quốc tiếp tục xây dựng kho vũ khí hạt nhân và cho phép Nga duy trì ưu thế về vũ khí hạt nhân phi chiến lược; trách cứ giới lãnh đạo Mỹ vì đã không tận dụng thỏa thuận của Nga về việc đóng băng tất cả các kho vũ khí hạt nhân của các bên “để đổi lấy” gia hạn thêm một năm của START mới…

Trong khi ở Nga, việc gia hạn START mới nói chung được đón nhận tích cực cả trong giới chính thức và chuyên gia, thì ở Mỹ, người ta bày tỏ nghi ngờ về việc liệu có đáng đồng ý với việc gia hạn vô điều kiện mà không có bất kỳ yêu cầu bổ sung nào hay không. Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố không có đủ thời gian để thảo ra một thỏa thuận như vậy, vì chỉ còn hơn hai tuần giữa lễ nhậm chức của tân Tổng thống Mỹ và START mới hết hạn, việc gia hạn START mới cho Mỹ thời gian cần thiết để giải quyết các mối quan ngại trong lĩnh vực này.

Nan giải vấn đề kiểm soát vũ khí hậu Thượng đỉnh Nga – Mỹ
Cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ - Nga không được kỳ vọng sẽ giải quyết tất cả các mối bất đồng giữa hai nước, đặc biệt trong lĩnh vực kiểm soát vũ khí. Nguồn: moderndiplomacy.eu

Việc gia hạn START mới không có nghĩa là các lập luận của những người chống lại New START đã hoàn toàn mất đi hiệu lực và không còn tác động đến chính sách an ninh của Mỹ. Chính quyền ông Biden có thể phải tính đến cơ sở chính trị và quân sự trong tương lai gần khi xây dựng quan điểm của mình về các bước tiếp theo trong lĩnh vực kiểm soát vũ khí hạt nhân. Bất kỳ cuộc thảo luận nào về các thỏa thuận kiểm soát vũ khí hạt nhân mới có thể bắt đầu với chính quyền mới của Mỹ, các bên trong mọi trường hợp sẽ không chỉ phải thảo luận mà còn phải nghiêm túc xem xét các mối quan tâm và lợi ích chung để tìm ra thỏa hiệp cần thiết nhằm đạt được đạt được hiệu quả thiết thực.

Theo tuyên bố ban đầu, Washington dự định tập trung chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân vào hai vấn đề chính - đạt được một thỏa thuận với Nga về việc kiểm soát tất cả các kho vũ khí hạt nhân của các bên, bao gồm cả vũ khí hạt nhân chiến thuật (phi chiến lược - NSNW); và để Bắc Kinh tham gia vào các cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí hạt nhân song phương hoặc đa phương để thiết lập quyền kiểm soát kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc dưới một số hình thức đảm bảo thông tin đầy đủ về tình trạng và triển vọng phát triển của nước này. Cả 2 phương án đều không có mục tiêu giảm kho vũ khí hạt nhân; vấn đề chủ yếu là đồng ý về một hệ thống xác thực và đảm bảo khả năng dự đoán về sự phát triển của các lực lượng hạt nhân của Nga và Trung Quốc.

Tính toán của Nga - Mỹ

Đặt bối cảnh chính trị của vấn đề sang một bên và giả định rằng Nga và Mỹ đã đồng ý về nguyên tắc thiết lập quyền kiểm soát đối với tất cả các đầu đạn hạt nhân trong kho vũ khí của họ, các bên sẽ phải giải quyết một số vấn đề cực kỳ khó khăn, không chỉ mang tính chất kỹ thuật mà còn mang tính chất quân sự - chính trị và chiến lược quân sự. Đặc biệt, trước khi bắt đầu đàm phán, các bên nên thống nhất về việc liệu NSNW có nên được “đánh đồng” với vũ khí chiến lược trong một thỏa thuận mới hay không và nếu không, thì những vũ khí này phải dựa trên tiêu chí nào - công suất đầu đạn, hay đặc điểm của phương tiện mà đầu đạn này có thể được sử dụng?

Trong tất cả các hiệp ước kiểm soát vũ khí hạt nhân trước đây, bao gồm cả START mới, chủ yếu đề cập đến các phương tiện mang, điều này theo quan điểm chiến lược quân sự là khá hợp lý và được cả hai bên chấp nhận. Nhưng câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ là liệu logic tương tự có thể được áp dụng cho các hệ thống NSNW hay không. Trong lĩnh vực vũ khí chiến lược, các bên đã xác định tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM), tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm (SLBM) và máy bay ném bom hạng nặng (HB) là những hệ thống được kiểm soát.

Trong trường hợp NSNW, phạm vi của các phương tiện mang sẽ mở rộng đáng kể và có thể bao gồm nhiều tên lửa (cả tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình) và một danh sách đáng kể các máy bay thường thực hiện các nhiệm vụ thông thường - “lưỡng dụng”, pháo hạng nặng cũng có thể thực hiện “chức năng hạt nhân”. Do đó, việc kiểm soát các NSNW phải bao hàm kiểm soát một loạt vũ khí thông thường của các phương tiện có khả năng mang vũ khí hạt nhân.

Từ những điều trên, theo các chuyên gia, chỉ có một cách để các bên thiết lập quyền kiểm soát NSNW - kiểm soát các đầu đạn hạt nhân và từ bỏ quyền kiểm soát các phương tiện mang. Trong trường hợp như vậy, đó sẽ không còn là kiểm soát “vũ khí hạt nhân”, mà là kiểm soát các đầu đạn hạt nhân. Do đó, toàn bộ hệ thống “kiểm soát vũ khí hạt nhân” chia thành ít nhất hai phần - kiểm soát vũ khí chiến lược và kiểm soát đầu đạn hạt nhân. Rõ ràng, việc chuyển đổi từ kiểm soát các phương tiện mang vũ khí hạt nhân sang kiểm soát các đầu đạn hạt nhân là một nhiệm vụ khá phức tạp, đòi hỏi thời gian đáng kể để tạo ra và thống nhất các biện pháp cụ thể cho phép các bên yên tâm tuân thủ các nghĩa vụ của mình.

Ngay cả với các vũ khí chiến lược được chi phối bởi START mới, các vấn đề không được giải quyết một cách đơn giản. Do đó, theo thông lệ đã được thiết lập của các thỏa thuận kiểm soát vũ khí giữa Mỹ và Nga, tất cả vũ khí hạt nhân của các bên được chia thành hai loại chính: được triển khai (tức là sẵn sàng sử dụng) và không được triển khai. Các giới hạn riêng biệt được áp dụng cho từng danh mục này. Ví dụ, Hiệp ước START mới cho phép triển khai 700 đơn vị ICBM, SLBM và máy bay ném bom hạng nặng, cũng như 800 đơn vị các phương tiện mang đã triển khai và không triển khai.

Ngoài ra còn có mức 1.550 đối với đầu đạn trên các bệ phóng chiến lược đã triển khai. Tuy nhiên, Hiệp ước không đề cập đến số lượng đầu đạn không được cho phép triển khai. Điều này đặt ra một câu hỏi khác: Đầu đạn hạt nhân nào sẽ được quan tâm - tất cả, riêng biệt chiến lược và riêng biệt phi chiến lược, hay triển khai riêng lẻ và không triển khai riêng lẻ? Phía Nga đề xuất tập trung vào “phần đã triển khai” trong kho vũ khí hạt nhân của các bên; lập trường của Mỹ về vấn đề này vẫn chưa rõ ràng.

Vấn đề tách bạch ranh giới giữa đầu đạn hạt nhân chiến lược và phi chiến lược là khó khăn nhất. Cùng một loại bom hạt nhân có thể được triển khai trên cả các loại máy bay ném bom chiến lược và máy bay ném bom không chiến lược khác, các đầu đạn hạt nhân công suất thấp đã được triển khai trên các tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân chiến lược. Ngoài ra, kho vũ khí của Mỹ gồm các đầu đạn hạt nhân có đương lượng thay đổi. Do đó, tiêu chí công suất phân chia đầu đạn thành “chiến lược” và “phi chiến lược” là không thể chấp nhận được. Việc phân chia đầu đạn hạt nhân thành hai loại này chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở các tham số khác.

Trong trường hợp các bên đồng ý kiểm soát đầu đạn hạt nhân trên cơ sở “triển khai - không triển khai”, họ cũng sẽ phải giải quyết một số vấn đề quan trọng. Một trong số đó là cách tính bom hạt nhân và tên lửa hành trình đã sẵn sàng để triển khai trên máy bay ném bom hạng nặng của các bên. Trong “đời thực”, những vũ khí này không được triển khai. Các máy bay ném bom hạng nặng của Nga và Mỹ thường xuyên thực hiện các sứ mệnh của mình ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới và theo các báo cáo công khai, chúng không mang vũ khí hạt nhân trên boong.

Nói cách khác, vũ khí có thể được triển khai trên máy bay ném bom hạng nặng nên được đưa vào danh mục “đầu đạn hạt nhân không được triển khai”. Điều tương tự cũng sẽ áp dụng cho các NSNW của Mỹ được lưu trữ tại các căn cứ ở 5 quốc gia NATO châu Âu (Bỉ, Đức, Ý, Hà Lan và Thổ Nhĩ Kỳ), mặc dù chúng đã sẵn sàng triển khai ngay lập tức trên các máy bay chiến đấu. Mặt khác, theo START mới, mỗi máy bay ném bom hạng nặng được tính là một bệ phóng và một đầu đạn và do đó “một phần” được đưa vào danh mục “triển khai” về số lượng đầu đạn cho phép.

Vấn đề dường như không quan trọng này vẫn cần được giải quyết và có thể ảnh hưởng đến sự thành công của một thỏa thuận trong tương lai, liên quan trực tiếp đến khả năng tích lũy nhanh chóng số lượng đầu đạn hạt nhân được triển khai trên các máy bay chiến lược và các máy bay khác thông qua việc có sẵn bom hạt nhân và đầu đạn tên lửa trong các kho chứa sẵn sàng lắp trên máy bay. Do đó, nếu phương pháp tiếp cận đầu đạn hạt nhân “được triển khai - không được triển khai” được thông qua cho mục đích của một thỏa thuận, các bên có thể sẽ phải áp dụng thêm ít nhất một tiểu mục nữa - đầu đạn đang “trong trạng thái dự bị” - điều sẽ càng làm phức tạp thêm các cuộc đàm phán.

Lập trường của Trung Quốc

Cần lưu ý rằng bất chấp những nỗ lực của chính quyền Mỹ trước đây, Nga đã từ chối tham gia với Mỹ trong việc gây sức ép để Trung Quốc tham gia vào các cuộc đàm phán về vũ khí hạt nhân, nói rằng Nga không thể tưởng tượng được các cuộc đàm phán đa phương mà không có sự tham gia của Anh và Pháp. Mỹ cáo buộc Trung Quốc đang tìm cách gia tăng đáng kể kho vũ khí hạt nhân của mình, để có được khả năng tiến hành một cuộc chiến tranh hạt nhân “có kiểm soát”, tăng cường khả năng đối phó của các lực lượng hạt nhân của họ và miễn cưỡng tiết lộ thông tin về tình trạng và kế hoạch phát triển. Chính quyền ông Trump chủ yếu cố gắng sử dụng các phương pháp “mạnh mẽ” trong nỗ lực “đưa Trung Quốc vào bàn đàm phán”.

Ở Mỹ đã và đang tồn tại quan điểm cho rằng, việc tạo ra các mối đe dọa quân sự bổ sung đối với Trung Quốc, chẳng hạn như mối đe dọa triển khai tên lửa tầm trung của Mỹ trong khu vực, có thể đóng một vai trò trong việc thay đổi quan điểm của Trung Quốc đối với các cuộc đàm phán. Mỹ cũng gây áp lực lên Nga, theo đúng nghĩa đen, yêu cầu nước này “buộc” phải tham gia vào các cuộc đàm phán. Một số chuyên gia đề xuất gây áp lực lên Trung Quốc, bao gồm công nhận vị thế “cường quốc”, mở ra triển vọng cải thiện quan hệ chiến lược với Mỹ trong khi đàm phán về vũ khí hạt nhân, và nỗ lực chứng minh rằng Trung Quốc gia nhập hệ thống kiểm soát vũ khí có thể tạo ra các lợi ích quân sự và chính trị lớn cho đất nước.

Nhưng Trung Quốc kiên quyết từ chối tham gia vào các cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí hạt nhân và minh bạch trong lĩnh vực đó, bao gồm cả việc chia sẻ dữ liệu về điều kiện của kho vũ khí hạt nhân và thậm chí cung cấp thông tin chính thức về số lượng lực lượng hạt nhân của họ. Các nhà chức trách Trung Quốc không đưa ra lý do từ chối, nhưng có thể cho rằng nó có nguồn gốc từ chính sách hạt nhân kéo dài nhiều thập kỷ của đất nước có từ thời Mao Trạch Đông. Đặc biệt, có nguyên tắc không sử dụng vũ khí hạt nhân trước, điều mà Trung Quốc có lẽ sẽ phải từ bỏ nhiều nhất nếu họ chọn đàm phán và tiết lộ thông tin đầy đủ về các lực lượng hạt nhân của mình, do đó làm tăng mạnh khả năng bị tổn thương đối với một cuộc tấn công hạt nhân giả định.

Điều kiện của Trung Quốc để tham gia các cuộc đàm phán đã được các quan chức của họ nhiều lần bày tỏ - giảm hơn nữa kho vũ khí hạt nhân của Nga và Mỹ xuống mức tương đương với của Trung Quốc. Có vẻ như Trung Quốc sẽ tiếp tục tuân thủ quan điểm này và khó có khả năng Mỹ có thể tìm ra các công cụ nghiêm túc để thay đổi cơ bản tình hình này. Do đó, người ta có thể kết luận rằng các ưu tiên kiểm soát vũ khí hạt nhân mà chính quyền mới của Mỹ công bố, cả liên quan đến Nga và Trung Quốc, vẫn chưa có triển vọng lớn. Kết luận này được ủng hộ bởi thực tế là Nga có quan điểm riêng về các ưu tiên kiểm soát vũ khí, trong nhiều trường hợp không trùng với tầm nhìn của Mỹ về vấn đề này.

Các ưu tiên của Nga

Sau khi START mới được gia hạn, hầu như không còn lĩnh vực lợi ích “đồng thuận” nào trong lĩnh vực kiểm soát vũ khí xét về các ưu tiên của Nga và Mỹ. Tuy nhiên, sự khác biệt này dường như không phải là trở ngại không thể vượt qua cho việc tiếp tục đối thoại kiểm soát vũ khí hạt nhân, hoặc thậm chí đàm phán, với chính quyền ông Biden. Trong mọi trường hợp, cả phía Nga và Mỹ đều không loại trừ kịch bản này.

Các đường nét cơ bản về quan điểm có thể có của Nga đối với các cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí hạt nhân đã được nêu trong tuyên bố nói trên của Bộ Ngoại giao Nga ngày 20/10/2020 và trong một số tài liệu khác được công bố sau khi chính quyền mới của Mỹ ra mắt, nói về khả năng “đàm phán song phương toàn diện về kiểm soát vũ khí tên lửa hạt nhân trong tương lai, với việc xem xét bắt buộc tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định chiến lược”. Cách diễn đạt này không thể nói là hoàn toàn rõ ràng về quan điểm đàm phán có thể có của Nga, đặc biệt là vì tuyên bố này “có liên hệ” với đề xuất gia hạn START mới thêm một năm và việc “đóng băng” kho vũ khí hạt nhân của các bên.

Vì vấn đề “đóng băng” hầu như đã bị loại bỏ khỏi chương trình nghị sự của quan hệ Mỹ-Nga và START mới đã được gia hạn thêm 5 năm mà không có thêm điều kiện nào, quan điểm nói trên của Nga có thể được điều chỉnh đáng kể trong tương lai. Tuy nhiên, người ta có thể đưa ra một số kết luận trên cơ sở Tuyên bố của Bộ Ngoại giao, mặc dù là dự kiến. Trước hết, trái ngược với quan điểm của Nga đã tuyên bố trước đó rằng sau START mới “các bước tiếp theo trong giải trừ hạt nhân về bản chất phải toàn diện và tất cả các quốc gia có vũ khí hạt nhân nên tham gia vào quá trình này…”, Nga hiện cũng cho phép đàm phán song phương với Mỹ.

Tuy nhiên, từ ngữ nói “về kiểm soát trong tương lai” không hoàn toàn rõ ràng. Nếu để tiếp cận nó một cách “nghiêm túc”, chúng ta không thể nói về bản thân các cuộc đàm phán với mục đích tìm ra một thỏa thuận cụ thể, mà là về “cuộc đàm phán về các cuộc đàm phán trong tương lai”. Thuật ngữ “kiểm soát vũ khí tên lửa hạt nhân” cũng không hoàn toàn rõ ràng. Danh mục này có thể bao gồm cả các phương tiện tấn công hạt nhân chiến lược và phi chiến lược. Tuy nhiên, nó không bao gồm tất cả vũ khí hạt nhân, ví dụ như ngư lôi hạt nhân, bom, máy bay không người lái dưới nước trang bị vũ khí hạt nhân mà Tổng thống Nga đã phát biểu vào ngày 1/3/2018. Do đó, người ta có thể kết luận rằng câu hỏi về việc Liên bang Nga có đồng ý kiểm soát vũ khí hạt nhân của tất cả các bên vẫn còn bỏ ngỏ.

Ý nghĩa của khái niệm “đàm phán toàn diện” không hoàn toàn rõ ràng và chính xác thì “tính toàn diện” thể hiện ở điều gì? Quan điểm chính thức của quốc gia về những vấn đề này chỉ được hình thành bằng những thuật ngữ rất chung chung. Tuy nhiên, các ví dụ về cách tiếp cận toàn diện đối với các vấn đề an ninh có thể được tìm thấy trong lịch sử các cuộc đàm phán Liên Xô - Mỹ. Do đó, Hiệp ước hạn chế vũ khí chiến lược đầu tiên, SALT-1, đã rất toàn diện. Từ năm 1969 đến năm 1972, các bên đã đồng thời thực hiện 2 hiệp định: Hiệp ước Phòng thủ Chống Tên lửa đạn đạo (Hiệp ước ABM) và Hiệp định Tạm thời về Các biện pháp Nhất định về Giới hạn Vũ khí Tấn công Chiến lược. Cả hai tài liệu được ký cùng một lúc, ngày 26/5/1972, và đi vào lịch sử với tên gọi SALT-1.

Vào nửa sau của những năm 1980, Liên Xô và Mỹ đã tham gia vào các cuộc đàm phán toàn diện trong ba lĩnh vực - vũ khí tấn công chiến lược (START), tên lửa tầm trung và tầm ngắn (INF), quốc phòng và không gian. Liên Xô nhấn mạnh rằng cả ba hiệp định phải được ký kết đồng thời, thiết lập mối liên kết rõ ràng giữa ba “khối xây dựng” và nhấn mạnh sự cần thiết phải đạt được thỏa thuận về quốc phòng và không gian như một điều kiện để ký kết hiệp ước START-1 và INF. Ban đầu, Mỹ chấp nhận điều kiện này, mà bản thân các cuộc đàm phán phụ thuộc vào đó. Tuy nhiên, Hiệp ước INF đã được đàm phán sớm hơn nhiều so với các văn kiện khác. Sau khi cân nhắc nghiêm túc, ban lãnh đạo Liên Xô đã quyết định rút hiệp ước này ra khỏi “gói” chung và ký nó sớm hơn, vào năm 1987.

Sau đó, năm 1991, START-1 được đàm phán, trong khi các cuộc đàm phán về quốc phòng và vũ trụ không mấy tiến triển do thiếu bất kỳ triển vọng nào về một thỏa thuận về hệ thống phòng thủ tên lửa trên không gian và “vũ khí tấn công không gian”, và thực tế là chương trình SDI đầy tham vọng vào thời điểm đó hầu như không còn tồn tại và được thay thế bằng Chương trình Bảo vệ Toàn cầu khiêm tốn hơn. Liên Xô một lần nữa loại bỏ “mối liên kết” của hai phần còn lại của “gói” đàm phán, đồng thời, đưa ra tuyên bố về sự cần thiết phải duy trì Hiệp ước ABM như một điều kiện để cắt giảm trong START I. Do đó, dường như không có bất kỳ trở ngại chính thức nào đối với việc tổ chức “các cuộc đàm phán song phương toàn diện”.

Như trong các trường hợp trước đây, cách diễn đạt trên không hoàn toàn rõ ràng về cách Nga tin rằng các cuộc đàm phán nên được tiến hành. Rốt cuộc, bất kỳ cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí nào đều có một chủ đề rõ ràng. Trong trường hợp này, nó là “tên lửa hạt nhân”. Sự ổn định chiến lược không phù hợp với khuôn khổ của các cuộc đàm phán như vậy. Điều duy nhất có thể làm là đồng ý về cách diễn đạt rằng thỏa thuận đã ký kết thúc đẩy sự ổn định chiến lược và sửa chữa nó trong phần mở đầu của hiệp ước tương lai. Có vẻ như cách tiếp cận này sẽ không phù hợp với phía Nga.

Một lựa chọn khác là nhấn mạnh vào một cách tiếp cận toàn diện đối với các cuộc đàm phán sẽ bao gồm toàn bộ các yếu tố mà theo quan điểm của Nga, ảnh hưởng đến sự ổn định chiến lược, bao gồm cả những tuyên bố được trình bày trong các văn bản chính thức được thông qua ở cấp cao nhất là Học thuyết Quân sự và Chiến lược An ninh Quốc gia của Nga. Từ các tài liệu này, các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự ổn định chiến lược, ngoài vũ khí hạt nhân, bao gồm phòng thủ tên lửa, vũ khí phi hạt nhân chính xác tầm xa chiến lược (bao gồm cả vũ khí tấn công toàn cầu phi hạt nhân) và vũ khí không gian.

Do đó, một cách tiếp cận “tích hợp” đối với các cuộc đàm phán có thể là tiến hành một số cuộc đàm phán song song - trong mỗi lĩnh vực này dưới một tiêu đề duy nhất, ví dụ: “Các cuộc đàm phán về hạn chế (tên lửa và) vũ khí hạt nhân và củng cố sự ổn định chiến lược”. Khả năng xảy ra các cuộc đàm phán như vậy là không lớn, chủ yếu đề cập đến ba “khối xây dựng” của các yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định chiến lược. Tuy nhiên, có vẻ hợp lý khi xem xét, ít nhất là về mặt chung, một số khía cạnh của việc áp đặt giới hạn đối với các hệ thống vũ khí được nêu tên để đánh giá khả năng của các cuộc đàm phán như vậy, nếu không phải là hiện tại, thì trong tương lai.

Vũ khí phi hạt nhân chính xác cao chiến lược

Từ quan điểm xác minh, “hứa hẹn” nhất là việc giải quyết vấn đề chiến lược về vũ khí phi hạt nhân chính xác cao chiến lược. Với sự mở rộng của START mới, một số hệ thống như vậy là đối tượng trực tiếp của nó. Điều này đặc biệt đúng với việc thay thế đầu đạn hạt nhân bằng đầu đạn phi hạt nhân trong các ICBM và SLBM hiện có. Trong các trường hợp khác, ít rõ ràng hơn (ví dụ, triển khai các loại tên lửa đạn đạo xuyên lục địa mới ở các vị trí mở, đã được đề xuất như một trong những lựa chọn để xây dựng hệ thống tấn công toàn cầu phi hạt nhân hóa của Mỹ), vấn đề có thể được giải quyết trong Ủy ban Tham vấn Song phương hoạt động trong khuôn khổ START mới. Trong mọi trường hợp, việc ký kết một hiệp ước riêng biệt về vũ khí phi hạt nhân chiến lược là không cần thiết, vì nhiều hạn chế của các loại vũ khí đó đã được bao hàm bởi các điều khoản của Hiệp ước START mới.

Vũ khí không gian

Đối với vấn đề kiểm soát vũ khí liên quan đến không gian còn khó khăn hơn đối với vũ khí hạt nhân phi chiến lược, để đạt được bất kỳ thỏa thuận toàn diện nào. Điều mà các chuyên gia lưu ý ở đây không phải là khó khăn khi đưa ra quyết định chính trị để thực hiện các cuộc đàm phán như vậy, mà là định nghĩa về chủ đề của cuộc đàm phán và các vấn đề xác minh. Ví dụ, liệu các cuộc đàm phán như vậy sẽ giải quyết các vấn đề “vũ khí không gian” nói chung hay đi qua ba khía cạnh có thể xảy ra: vũ khí chống vệ tinh, vũ khí không-đối-đất và yếu tố không gian của các hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo (BMD) tiên tiến.

Nếu nói đến “vũ khí không gian”, nên hiểu rằng lệnh cấm hoàn toàn đối với “vũ khí không gian” là không thể vì nhiều hệ thống vũ khí hiện có (ví dụ ICBM và SLBM) có khả năng đưa vệ tinh vào quỹ đạo. Nhưng trước đó, các bên phải đi đến một tầm nhìn chung về những gì họ hiểu bằng các thuật ngữ “vũ khí không gian”, “vũ khí trong không gian” và một số khái niệm khác, bao gồm cả “vũ khí” như vậy. Nếu không có một thỏa thuận như vậy, hầu như không thể đàm phán bất kỳ hạn chế hoặc cấm đối với một hoạt động khi bản thân vấn đề của cuộc đàm phán không được chỉ ra rõ ràng.

Ở đây, cũng cần lưu ý rằng một số hệ thống “vũ khí không gian” có thể có, không giống như NSNW, hiện không tồn tại và các cuộc đàm phán như vậy chỉ có thể nói về việc ngăn chặn (cấm) tạo ra hoặc phát triển chúng. Nhưng ở đây các nhà đàm phán có thể mong đợi một “cái bẫy kỹ thuật” khác, mà cuộc đàm phán Quốc phòng và Không gian cuối những năm 1980 đã rơi vào. Các bên đã dành khá nhiều thời gian để cố gắng vạch ra ranh giới rõ ràng giữa “sáng tạo” và “phát triển”. Các bên đã cố gắng làm rõ thế nào là “thí nghiệm” so với “thử nghiệm”, “thiết bị thí nghiệm” so với “nguyên mẫu”, thế nào là “phòng thí nghiệm” (phòng có hoặc không có tường) và liệu nó có thể ở trong không gian, cũng như một loạt các vấn đề kỹ thuật khác.

Giải quyết một tập hợp các câu hỏi này là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn. Trong mọi trường hợp, nhiều vấn đề trong số này vẫn để ngỏ sau sáu năm thảo luận cụ thể tại Geneva (1985-1991). Như thực tiễn của các cuộc đàm phán như vậy cho thấy, không thể tránh khỏi việc thảo luận về tất cả các vấn đề kỹ thuật này. Nếu không, sự thiếu rõ ràng về các khía cạnh nhất định của một thỏa thuận trong tương lai sẽ dẫn đến sự nghi ngờ giữa các bên gia tăng và hậu quả là làm suy yếu bản thân hiệp ước.

Danh sách các vấn đề cần giải quyết nếu đạt được thỏa thuận tham gia “đàm phán không gian” có thể tiếp tục diễn ra. Không phải tất cả chúng đều sẽ dễ dàng giải quyết, ngay cả khi các bên có ý chí chính trị để ký kết một thỏa thuận như vậy. Chắc chắn sẽ có vấn đề về “vũ khí không gian” của các nước thứ ba, đặc biệt là Trung Quốc và một số quốc gia NATO, các tài sản “lưỡng dụng” như “máy thu thập mảnh vỡ không gian”, vệ tinh bảo dưỡng và sửa chữa, và nhiều loại khác. Vẫn còn phải xem liệu có thể thống nhất về tất cả những vấn đề này từ quan điểm kỹ thuật thuần túy hay không.

Phòng thủ tên lửa

Đối với Nga, vấn đề phòng thủ tên lửa là cấp bách nhất trong việc đảm bảo an ninh quốc gia của nước này. Gần như ngay lập tức sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp ước ABM, Nga đã kiên trì nỗ lực quay trở lại ít nhất một số hạn chế về phương tiện phòng thủ hoặc vô hiệu hóa hiệu quả của các hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ, tăng khả năng xâm nhập phòng thủ tên lửa trong quá trình phát triển và hiện đại hóa hệ thống tấn công chiến lược. Có vẻ như nếu cuộc đối thoại kiểm soát vũ khí Mỹ-Nga nối lại, quan điểm của Nga về mặt nào đó sẽ yêu cầu các hệ thống phòng thủ phải được tính đến trong cán cân chiến lược của các bên. Những hạn chế như vậy được cho là sẽ góp phần vào sự ổn định chiến lược, và do đó ảnh hưởng đến an ninh ở tất cả các cấp độ đối đầu - từ khu vực đến toàn cầu.

Hiệp ước ABM được cho là đưa ra các hạn chế đối với các hệ thống “chống lại tên lửa đạn đạo chiến lược hoặc các phần tử của chúng trên đường bay”. Tất cả các hệ thống phòng thủ tên lửa khác đều không bị giới hạn. Năm 1997, các bên đã có thể đồng ý về các đặc điểm cụ thể của các hệ thống BMD cho phép các hệ thống này được phân loại là “chiến lược” và “phi chiến lược”. Điều đó phải được thực hiện để củng cố thể chế của Hiệp ước ABM mà phía Nga coi là điều kiện tiên quyết để START II có hiệu lực.

Và trong khi cả hai bên không chính thức chấp nhận sự “tách biệt” giữa các hệ thống BMD chiến lược và phi chiến lược, nó vẫn xuất hiện trong các cuộc thảo luận về các vấn đề liên quan đến hậu quả của việc Mỹ triển khai BMD ở châu Âu và châu Á. Trong mọi trường hợp, các đại diện của Mỹ đã nhiều lần tuyên bố rằng “phòng thủ tên lửa phòng không” ở châu Âu “không đe dọa” đến tiềm năng răn đe của các lực lượng chiến lược Nga, không có khả năng đánh chặn ICBM và SLBM, và chỉ nhằm mục đích bảo vệ các đồng minh của Mỹ khỏi các mối đe dọa từ chẳng hạn như Iran và Bắc Triều Tiên.

Tuy nhiên, tình hình với vấn đề “sự chia cắt” này đã thay đổi đáng kể vào tháng 11/2020 sau vụ thử thành công tên lửa chống đạn đạo SM-3 Block IIA của Mỹ, lần đầu tiên nó bắn hạ một mục tiêu tên lửa đạn đạo xuyên lục địa từ một con tàu được trang bị với hệ thống chống tên lửa AEGIS. Các tên lửa chống tên lửa đang được chế tạo như một phần của dự án chung giữa Mỹ và Nhật Bản. Chúng được thiết kế để bắn từ bệ phóng đa năng Mk 41 trang bị cho các tàu tuần dương và khu trục hạm của Mỹ thuộc một số lớp nhất định và hệ thống mặt đất Aegis Ashore ở Ba Lan và Romania. Vụ thử này khiến Nga và Mỹ rất khó đạt được bất kỳ thỏa thuận nào về việc hạn chế hệ thống phòng thủ tên lửa của họ.

Nga có mọi lý do để yêu cầu các hệ thống phòng thủ tên lửa phòng không được tính đến trong sự cân bằng tổng thể về vũ khí trang bị như vậy của các bên. Quan điểm của Nga có thể không chỉ áp dụng cho các hệ thống tên lửa được thử nghiệm trực tiếp với tư cách là phòng thủ tên lửa chiến lược, mà còn cho các bệ phóng tên lửa mà không cần quan tâm đến loại hệ thống tên lửa đó. Ngoài ra, hệ thống kiểm soát các loại vũ khí này rất phức tạp vì chúng không chỉ được triển khai trên các tàu của Mỹ mà còn trên lãnh thổ của các quốc gia khác. Người ta chỉ có thể suy đoán liệu Mỹ tiến hành vụ thử này chỉ để kiểm tra khả năng kỹ thuật của hệ thống chống tên lửa mới hay liệu đó là một bước đi có chủ ý nhằm loại bỏ bất kỳ triển vọng đạt được thỏa thuận nào trong lĩnh vực này.

* * *

Tổng quan ngắn gọn về các lĩnh vực kiểm soát vũ khí chính có thể góp phần xây dựng lòng tin, ổn định chiến lược và an ninh quốc tế cho thấy sự phức tạp đáng kể của “mặt kỹ thuật” của việc kiểm soát, có thể đòi hỏi các bên phải nỗ lực rất nhiều và một khoảng thời gian đáng kể để đồng ý về tất cả các điều khoản của các thỏa thuận trong tương lai. Sự khác biệt về lợi ích của Nga và Mỹ liên quan đến các ưu tiên kiểm soát vũ khí là khá rõ ràng. Do đó, đối với Mỹ, trọng tâm chính là thiết lập quyền kiểm soát tất cả các kho vũ khí hạt nhân của các bên (bao gồm cả Trung Quốc).

Đối với Nga, đó là việc kiểm soát các vũ khí tấn công và phòng thủ chiến lược (cả hạt nhân và phi hạt nhân), giải quyết vấn đề “vũ khí không gian” và một số vấn đề khác. Trong bối cảnh như vậy, dường như có thể tìm kiếm một giải pháp thỏa hiệp, bao gồm cả các cuộc đàm phán toàn diện và liên quan đến một số lĩnh vực nêu trên đồng thời. Do đó, cả Nga và Mỹ sẽ phải nhượng bộ lẫn nhau, bản chất của sự nhượng bộ này có thể được xác định cả trong bản thân các cuộc đàm phán và thậm chí trước khi chúng bắt đầu. Tuy nhiên, trong bối cảnh quan hệ căng thẳng giữa hai nước hiện nay, người ta khó có thể mong đợi bất kỳ tiến triển nào trong lĩnh vực này trong tương lai gần.

Có thể kết luận rằng kiểm soát vũ khí không còn có thể đóng vai trò là “động lực” để cải thiện quan hệ quốc tế. Ngược lại, nếu không có sự cải thiện như vậy, các cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí khó khả thi, vì các bước kiểm soát vũ khí đòi hỏi mức độ tin cậy rất cao giữa các bên. Do đó, trọng tâm nên tập trung vào việc hoàn thành vô điều kiện tất cả các nghĩa vụ mà các bên đã thực hiện theo START mới mở rộng, sử dụng thỏa thuận này như một “điểm tham chiếu” trong quan hệ Mỹ-Nga và không cần chờ ngày nó hết hạn trong nỗ lực tiếp tục giải trừ vũ khí hạt nhân./.