Các đồng chí: Nguyễn Phú Trọng – Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Nguyễn Xuân Phúc - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam; Phạm Minh Chính - Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ; Vương Đình Huệ - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội; Võ Văn Thưởng - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đồng chủ trì hội nghị.

Về phía tỉnh Nghệ An, tham dự hội nghị tại điểm cầu Trung ương có đồng chí Thái Thanh Quý - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh, Chủ tịch HĐND tỉnh; các đồng chí Thường trực Tỉnh ủy, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy.

Tại điểm cầu tỉnh Nghệ An, đồng chí Nguyễn Văn Thông – Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy chủ trì hội nghị. Tham dự hội nghị có các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; các đồng chí Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Trưởng, Phó Ban, sở, ngành, cơ quan cấp tỉnh và cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn, tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh.

Hội nghị được tổ chức trực tuyến tới 22 điểm cầu các huyện, thành, thị ủy và Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh; 431 điểm cầu ở xã, phường, thị trấn và hơn 300 điểm cầu cơ sở trực thuộc Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh.

1-1668584724.jpg
Quang cảnh hội nghị tại điểm cầu Nghệ An

Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng

Ngày 3/11/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh phát triển vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

2-1668584753.jpg
3-1668584765.jpg
Các đại biểu dự hội nghị

Tại hội nghị, đồng chí Trần Tuấn Anh - Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đã báo cáo những nội dung chủ yếu của Nghị quyết 26-NQ/TW.

Theo đó, trong những năm qua thực hiện Nghị quyết số 39 của Bộ Chính trị khoá IX và Kết luận số 25 của Bộ Chính trị khoá XI về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh (QP-AN) vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, các cấp, các ngành, nhất là các địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của vùng; sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị được huy động; nhiều điểm nghẽn đối với phát triển được khơi thông, tiềm năng, lợi thế của vùng và từng địa phương trong vùng từng bước được phát huy, đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực.

Kinh tế tăng trưởng bình quân 7,3%/năm giai đoạn 2005 - 2020, cao hơn mức trung bình cả nước. Quy mô kinh tế của vùng năm 2020 (theo giá hiện hành) tăng gấp 9,1 lần so với năm 2004, chiếm 14,5% GDP cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt mức 56,9 triệu đồng/người/năm. Trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, QP-AN được giữ vững, nhất là an ninh chính trị, an ninh biên giới, bảo vệ vững chắc vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc... Tuy nhiên, bên cạnh đó, Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ vẫn là vùng có chỉ số phát triển ở nhiều lĩnh vực thấp hơn mức trung bình cả nước. Tiềm năng, lợi thế của vùng, nhất là kinh tế biển chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả.

Nghị quyết 26-NQ/TW xác định, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhất là về kinh tế biển và quốc phòng, an ninh biển, đảo của Tổ quốc. Đổi mới tư duy phát triển, tạo đồng thuận, thống nhất cao trong nhận thức và hành động; phát triển nhanh, bền vững tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng và các địa phương trong vùng; nâng cao trình độ và thu nhập của người dân trong vùng là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa chiến lược của các địa phương trong vùng và cả nước.

Về mục tiêu đến năm 2030, Nghị quyết 26-NQ/TW của Bộ Chính trị xác định Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ là vùng phát triển năng động, nhanh và bền vững, mạnh về kinh tế biển; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, có khả năng chống chịu cao với thiên tai, dịch bệnh và thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; có một số trung tâm công nghiệp, dịch vụ, hợp tác quốc tế lớn của cả nước với các khu kinh tế ven biển và hệ thống đô thị ven biển đạt chuẩn quốc gia và khu vực; là cửa ngõ ra biển của vùng Tây Nguyên và nước bạn Lào; là nơi các giá trị văn hoá, lịch sử và hệ sinh thái biển, đảo, rừng được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao; quốc phòng, an ninh và chủ quyền biển, đảo được bảo đảm vững chắc; các tổ chức đảng, hệ thống chính trị vững mạnh; khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường.

Về một số chỉ tiêu cụ thể, Nghị quyết số 26-NQ/TW nêu rõ, giai đoạn 2021 – 2030 tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 7 - 7,5%. Đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 156 triệu đồng/người/năm (giá hiện hành), kinh tế số trong GRDP vùng đạt khoảng 30%. Phấn đấu tỷ lệ đô thị hoá đạt khoảng 47 – 48%. Tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới trên 90%. Thu ngân sách nhà nước chiếm khoảng 20 - 25% cả nước.

Nghị quyết của Bộ Chính trị cũng đề ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu gồm: Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách và đẩy mạnh liên kết vùng. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, thúc đẩy phát triển kinh tế biển. Tập trung phát triển mạnh hệ thống đô thị, nhất là hệ thống đô thị ven biển; đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng, nhất là hạ tầng giao thông. Tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên biển, đảo và rừng; bảo vệ môi trường, nhất là môi trường biển; nâng cao khả năng ứng phó thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển toàn diện văn hoá - xã hội vùng…

Tại Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị đề cập trên nhiều nội dung quan trọng liên quan đến Nghệ An như: Rà soát, điều chỉnh cơ chế, chính sách và nguồn lực để nâng cao hiệu quả hợp tác phát triển các quy hoạch liên tỉnh Nam Thanh Hóa - Bắc Nghệ An; Nam Nghệ An - Bắc Hà Tĩnh; kêu gọi và thúc đẩy đầu tư tuyến đường cao tốc Hà Nội - Viêng Chăn (đoạn qua Nghệ An). Thành phố Vinh được xác định là “tọa độ” được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và nâng cao chất lượng hoạt động một số trường đại học lớn, đồng thời, trở thành hạt nhân của trung tâm y tế chuyên sâu cùng với các thành phố là Đà Nẵng và TP. Huế. Thành phố Vinh cũng được định hướng phát triển thành trung tâm văn hóa phía Bắc của vùng…

Cũng tại hội nghị, đồng chí Vũ Đức Đam - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ đã trình bày dự thảo Chương trình hành động của Ban cán sự đảng Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đồng chí Nguyễn Đức Hải - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội trình bày dự thảo Chương trình hành động của Đảng đoàn Quốc hội triển khai Nghị quyết cỉa Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Đại diện các bộ, ngành, địa phương: Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Bình Thuận, Thanh Hóa đã tham luận triển khai các nội dung của Nghị quyết.

Tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động

Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, hội nghị có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cũng như trong phát triển vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ để sớm đưa Nghị quyết quan trọng này vào cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phát triển vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ.

4-1668584793.jpg
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại hội nghị. Ảnh: vov.vn

Để thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc hơn nữa vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của vùng cũng như mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của phát triển vùng. Nắm thật vững quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm để trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, hành động, quyết tâm của toàn vùng, của từng địa phương trong vùng, cũng như của cả nước, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.  Phải xác định rõ tinh thần, trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị chứ không phải là nhiệm vụ riêng của vùng, của các địa phương trong vùng. Liên kết vùng phải trở thành tư duy chủ đạo, dẫn dắt sự phát triển của toàn vùng và các địa phương trong vùng. Tập trung ưu tiên hoàn thiện thể chế, chính sách trong phát triển vùng và liên kết vùng về tổ chức, bộ máy, nguồn lực và cơ chế triển khai; tham gia có hiệu quả các hoạt động hội nhập quốc tế.

Khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống cách mạng, tinh thần yêu nước,  ý thức tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân các địa phương trong vùng, quyết vượt lên chính mình. Khắc phục tư tưởng tự mãn, bằng lòng với những gì đã làm được. Phải có ý chí và tinh thần cao hơn nữa, quyết không cam chịu đói nghèo; đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, sự liên kết, hợp tác, giúp đỡ của các địa phương nhất là các tỉnh Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ, vùng đồng bằng sông Hồng để phát triển vùng nhanh và bền vững, giàu có, trù phú hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng đạt mức cao hơn mức bình quân chung của cả nước; tăng trưởng gắn với đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu vùng để vượt qua những khó khăn, thách thức và phát huy tốt hơn tiềm năng, lợi thế to lớn, vốn có của vùng.

Trên cơ sở đổi mới tư duy và nhận thức cần đầy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển vùng. Tổng Bí thư đề nghị Chính phủ và các cơ quan Trung ương cần tăng cường phối hợp với các địa phương trong vùng khẩn trương xây dựng và hoàn thiện, ban hành và triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách ưu tiên, có đặc thù cho vùng. Xây dựng và thực hiện thật tốt quy hoạch phát triển vùng giai đoạn 2021 -2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo hướng xanh, bền vững và toàn diện, phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, gắn kết với phát triển công nghiệp, nông nghiệp  và dịch vụ, giữa phát triển đô thị và nông thôn mới…

Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Ưu tiên bố trí nguồn vốn ngân sách nhà nước kết hợp với huy động các nguồn lực trong xã hội phục vụ cho việc đầu tư các công trình trọng điểm, có sức lan tỏa. Giải quyết các vấn đề phát triển vùng và liên vùng. Phát triển vùng toàn diện cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Tăng cường nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch vững mạnh. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền. Tăng cường công tác đào tạo đội ngũ cán bộ; nghiêm túc thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với thực hiện Chị thị số 05 của Bộ Chính trị. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng, tiên phong gương mẫu về đạo đức, lối sống. Thực hiện nghiêm các chủ trương về đổi mới, sắp xếp bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, thật sự liêm chính, trong sạch. Giáo dục, bồi dưỡng nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức có bản lĩnh chính trị, có tính chuyên nghiệp cao. Tiếp tục cải cách hành chính, phát triển chính quyền điện tử, hướng đến chính quyền số, nền kinh tế số và xã hội số, đô thị thông minh.

Đề cao trách nhiệm của người đúng đầu; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và bảo vệ những cán bộ dám đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Khơi dậy tinh thần cống hiến của cán bộ, công chức. Đổi mới phương pháp dân vận và hoạt động giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Xây dựng tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta với các nước bạn.

Ngay sau hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị căn cứ vào Nghị quyết và kế hoạch của Bộ Chính trị, sự chỉ đạo hướng dẫn của các Ban Đảng Trung ương và các cơ quan cấp trên, các cơ quan, các địa phương trong vùng cần khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, chương trình học tập và quán triệt, triệt khai Nghị quyết gắn với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp. Chương trình hành động các địa phương, bộ, ngành phải bám sát quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nội dung của Nghị quyết, bảo đảm sát hợp với từng địa phương trong vùng và tiểu vùng. Các ban, bộ, ngành Trung ương và các địa phương trong vùng cần cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách, đề án… trong đó cần có nguồn lực cụ thể để thực hiện. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, kiên quyết không đánh trống bỏ dùi, không đầu voi đuôi chuột…/.