Quyết định của FED được đưa ra trong bối cảnh chỉ còn chưa đầy một tuần nữa sẽ diễn ra cuộc bầu cử quốc hội giữa nhiệm kì ở Mỹ, và có khoảng 50% người Mỹ tham gia một cuộc thăm dò dư luận do ABC News/Ipsos thực hiện cho rằng kinh tế hoặc lạm phát là những vấn đề quan trọng nhất chi phối lá phiếu của họ.
Động thái của FED không nằm ngoài dự đoán của giới phân tích và thị trường bởi trước đó, bà Lisa Cook, thành viên Ban Thống đốc FED khẳng định Mỹ sẽ cần tiến hành nhiều đợt tăng lãi suất cơ bản nữa nhằm hạ nhiệt nền kinh tế và kiềm chế giá cả tăng cao, sau đó siết chặt chính sách tiền tệ trong một khoảng thời gian cho đến khi FED tin rằng có thể đạt mục tiêu đưa lạm phát trở về mốc 2%.
Để kiềm chế đà tăng kỉ lục của lạm phát, không chỉ FED mà nhiều ngân hàng trung ương khác trên thế giới cũng đang trong "cuộc đua lãi suất". Theo ước tính của hãng tin Bloomberg, khoảng 90 ngân hàng trung ương đã tăng lãi suất trong năm nay, và một nửa trong số đó đã tăng ít nhất 0,75 điểm phần trăm trong một lần tăng duy nhất. Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) mới đây cũng tăng lãi suất chủ chốt thêm 0,75 điểm phần trăm lên 2%, đánh dấu lần tăng lãi suất thứ 3 liên tiếp và là lần tăng lớn thứ 2 trong lịch sử ECB. Chủ tịch ECB Christine Lagarde cho biết quyết định tăng lãi suất nhằm bảo đảm ổn định giá cả, qua đó hạn chế những thiệt hại cho nền kinh tế.
Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá việc nâng lãi suất để kiểm soát lạm phát là điều cần thiết, tuy nhiên các ngân hàng trung ương cần phối hợp chặt chẽ, vừa kiểm soát lạm phát một cách hiệu quả, vừa hạn chế những tác động bảo tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, hiện các động thái nâng lãi suất quyết liệt của FED làm dấy lên nhiều quan ngại về việc nền kinh tế Mỹ giảm tốc quá nhanh. Dù sự phục hồi vững chắc Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Mỹ trong quý III (tăng 2,6% so với cùng kì năm ngoái) xoa dịu một số lo ngại về suy thoái, song giá cả vẫn chưa thể hạ nhiệt sau các đợt tăng lãi suất mạnh mẽ của FED.
Có thể thấy, các đợt tăng lãi suất liên tiếp của FED khiến dòng vốn đổ về Mỹ, đồng thời làm xói mòn giá trị của đồng euro. Báo cáo của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cũng chỉ ra rằng khoảng 90 quốc gia đang phát triển đã chứng kiến đồng nội tệ suy yếu so với đồng USD trong năm nay - hơn 1/3 trong số đó giảm trên 10%. Ít nhất 46 quốc gia đang phát triển đang phải hứng chịu nhiều cú sốc kinh tế và 48 quốc gia khác bị ảnh hưởng nghiêm trọng, làm tăng nguy cơ khủng hoảng nợ toàn cầu. Việc tăng lãi suất nhanh chóng và thắt chặt tài khóa ở các nền kinh tế tiên tiến kết hợp với các cuộc khủng hoảng khác do dịch Covid-19 và cuộc xung đột ở Ukraine đã đẩy nhanh quá trình suy thoái toàn cầu và việc “hạ cánh mềm” khó có thể xảy ra.
Nhà kinh tế trưởng của IMF Pierre-Olivier Gourinchas khẳng định, việc kiểm soát lạm phát phải là ưu tiên hàng đầu của các ngân hàng trung ương. Các hành động quyết liệt có thể sẽ ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế, song đây là điều cần thiết bởi nó sẽ đảm bảo sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế trong dài hạn. Hơn nữa, bất chấp các đợt tăng lãi suất mạnh mẽ của FED, đến nay, thị trường việc làm và chi tiêu tiêu dùng - hai động lực quan trọng của nền kinh tế Mỹ vẫn phục hồi tốt, tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách tập trung chống lạm phát.
Dù vậy, giới phân tích khuyến nghị, là cơ quan đóng vai trò động lực thúc đẩy việctăng lãi suất trên quy mô toàn cầu, FED cần có trách nhiệm xem xét nghiêm túc tác động của các chu kì tăng lãi suất tại Mỹ đối với phần còn lại của thế giới…/.