Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) vừa qua đã cấp giấy phép lưu hành có điều kiện thuốc điều trị Covid-19 cho 3 doanh nghiệp trong nước sản xuất bao gồm Công ty TNHH Liên doanh Stellapharm Việt Nam; Công ty CP Dược phẩm Boston Việt Nam (Boston Pharma) và Công ty CP Dược phẩm Mekophar (MKP).
Đồng thời, cơ quan quản lý cũng chính thức công bố giá bán thuốc điều trị Covid-19 của cả 3 hãng dược phẩm này.
Trong bộ 3 doanh nghiệp được cấp phép kể trên, Mekophar là doanh nghiệp duy nhất đã niêm yết trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, trước khi được cấp phép lưu hành thuốc điều trị Covid-19, kết quả kinh doanh của hãng dược phẩm này lại đang đi tụt lùi.
Mekophar và 5 năm lợi nhuận đi lùi
Mekophar tiền thân là Xí nghiệp Dược phẩm trung ương 24, đơn vị thành viên của Tổng công ty dược Việt Nam. Đến năm 2001, công ty cổ phần hóa và niêm yết trên sàn HoSE năm 2010.
Tuy nhiên, đến năm 2012, hãng dược phẩm này đã hủy niêm yết vì đăng ký thêm ngành nghề kinh doanh bán buôn, bán lẻ dược phẩm nhưng lại có tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài.
Sau giai đoạn tái cơ cấu vốn này, đến năm 2017, Mekophar trở lại niêm yết trên sàn UPCoM. Tuy nhiên, từ khi niêm yết trở lại, kết quả kinh doanh của Mekophar không mấy khả quan, thậm chí còn đi lùi so với giai đoạn trước.
Dù vẫn đều đặn thu về hơn nghìn tỷ đồng doanh thu mỗi năm, nhưng lợi nhuận của hãng dược phẩm này đã giảm 5 năm liên tiếp.
Trong năm gần nhất (2021), hãng dược phẩm này ghi nhận 1.130 tỷ đồng doanh thu thuần, giảm nhẹ so với năm 2020. Tuy nhiên, lợi nhuận sau thuế lại giảm tới 60%, chỉ đạt gần 16 tỷ đồng. Đây cũng là mức lợi nhuận thấp nhất mà doanh nghiệp này ghi nhận được kể từ năm 2006.
Theo lý giải của ban lãnh đạo Mekophar, nguyên nhân khiến lợi nhuận tụt dốc năm vừa qua là chi phí quản lý doanh nghiệp tăng mạnh, trong đó ảnh hưởng chính đến từ dịch bệnh Covid-19 khiến tiền lương nhân sự và giá cả các chi phí đầu vào tăng cao.
Ngoài yếu tố này, ban lãnh đạo Mekophar cũng cho biết kết quả kinh doanh suy giảm liên tục cũng đến từ việc công ty phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp trong ngành dược. Trong khi, nguyên liệu sản xuất của hãng có 90% là nhập khẩu, việc Trung Quốc đóng cửa nhiều nhà máy đã khiến giá nguyên liệu tăng cao, ảnh hưởng đến giá thành sản xuất.
Bên cạnh đó, giá thầu thuốc quá thấp nên công ty cũng không thể trúng thầu thuốc vào các bệnh viện, trong khi hoạt động xuất khẩu thuốc bị cạnh tranh với thuốc rẻ từ Ấn Độ và Trung Quốc.
Trong năm 2020 trước đó, doanh thu thuần của Mekophar vẫn đạt 1.211 tỷ, nhưng lợi nhuận của hãng chỉ là gần 40 tỷ đồng, thấp hơn 39% so với năm liền trước. Năm 2019, lợi nhuận ròng của công ty cũng giảm 39%.
Kết quả kinh doanh đi lùi này đã khiến thị giá cổ phiếu MKP của Mekophar trải qua giai đoạn giảm liên tục từ vùng gần 80.000 đồng/cổ phiếu (năm 2018) xuống vùng 41.000 đồng vào đầu năm nay.
Tuy nhiên, sau khi thông tin được cấp phép thuốc điều trị Covid-19, thị giá cổ phiếu này đã tăng dựng đứng lên gần 73.000 đồng/đơn vị, tương đương mức tăng ròng 78% chỉ trong chưa đầy một tuần.
Hiện tại, thị giá MKP đã giảm về vùng 62.000 đồng/cổ phiếu, nhưng vẫn cao gấp rưỡi so với thời điểm trước khi được cấp phép lưu hành thuốc điều trị Covid-19.
Hai hãng dược liên doanh nước ngoài
Trái ngược với Mekophar, dù có quy mô nhỏ hơn nhiều lần nhưng kết quả kinh doanh của Boston Pharma lại tăng trưởng đều trong những năm gần đây.
Boston Pharma tiền thân là Công ty Dược phẩm VITAR do Tổng công ty dược Việt Nam thành lập năm 2007. Đến năm 2008, công ty này liên doanh với Boston Pharmaceutical Inc. USA và đổi tên thành Công ty CP Dược phẩm Boston Việt Nam.
Đến cuối năm 2020, công ty có vốn điều lệ 200 tỷ đồng, trong đó, cổ đông nước ngoài Boston Pharmaceu Tical INC (Mỹ) nắm 5%; ông Lương Đăng Khoa nắm 37,5% và ông Văn Bá Nam sở hữu 22%. Đầu năm 2022, hãng dược phẩm này đã tăng vốn lên gần 214 tỷ đồng nhưng cơ cấu cổ đông không thay đổi.
Về tình hình kinh doanh, quy mô doanh thu hàng năm của Boston Pharma chỉ tương đương 1/5 so với Mekophar nhưng lại tăng trưởng đều trong những năm gần đây.
Cụ thể, theo báo cáo kết quả kinh doanh mới nhất, công ty này ghi nhận gần 355 tỷ đồng doanh thu trong năm 2020, tăng 13% so với năm liền trước. Trong đó, doanh thu năm 2019 của hãng cũng đã tăng 50% và năm 2018 tăng 22%.
Tính bình quân năm 2016-2020, tăng trưởng doanh thu của Boston Pharma đạt gần 30%/năm, với tổng doanh thu lũy kế giai đoạn này đạt gần 1.200 tỷ đồng.
Đi cùng mức tăng trưởng doanh thu này là lợi nhuận cũng tăng đều qua các năm, đạt gần 30 tỷ đồng năm 2020 và đạt 118 tỷ đồng trong 5 năm này.
Về phía Stellapharm - doanh nghiệp được Cục Quản lý Dược cấp phép lưu hành có điều kiện thuốc điều trị Covid-19 Molnupiravir 400 mg - tiền thân là Công ty Liên doanh TNHH Stada - Việt Nam, hoạt động từ năm 2003. Doanh nghiệp này được thành lập với tỷ lệ 50/50 giữa Công ty TNHH Dược phẩm M.S.T và đối tác Stada Arzneimittel (Đức).
Tuy nhiên, đến cuối năm 2019, đối tác Đức đã thoái toàn bộ vốn khỏi công ty, bên mua lại là Dược phẩm M.S.T (42%) và Auxilto Healthcare International Private Limited (8%).
Sau giao dịch, Dược phẩm M.S.T nâng sở hữu tại Stellapharm lên mức 92%.
Tương tự, Boston Pharma, quy mô kinh doanh của Stellapharm cũng nhỏ hơn nhiều so với Mekophar. Trong đó, doanh thu năm gần nhất theo báo cáo công ty công bố (2020) mới đạt hơn 162 tỷ đồng, chỉ tương đương 1/7 so với Mekophar. Tính chung cả giai đoạn 2016-2020, doanh thu lũy kế của hãng dược phẩm này mới đạt gần 1.100 tỷ đồng, chưa bằng doanh thu Mekophar ghi nhận trong 1 năm.
Cũng trong giai đoạn này, tổng lợi nhuận lũy kế Stellapharm thu về là 369 tỷ đồng. Trong đó, đa số lợi nhuận đến ở năm 2019 với khoản lãi đột biến gần 326 tỷ, trong khi các năm trước đó công ty này chỉ thu về trên dưới 10 tỷ đồng/năm.
Nếu xét tại Việt Nam, 3 công ty dược kể trên chỉ thuộc nhóm vừa và nhỏ. Tuy nhiên, đây lại là 3 doanh nghiệp được Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) cấp giấy phép lưu hành có điều kiện với thuốc điều trị Covid-19./.