Cách đây 110 năm, ngày 5/6/1911, từ bến Nhà Rồng - cảng Sài Gòn, người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc trên con tàu Đô đốc Latouche-Tréville, bắt đầu hành trình 30 năm tìm ánh sáng cho con đường giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Người, trong các giai đoạn cách mạng, đặc biệt là suốt 35 năm đổi mới cho thấy những đúc rút của Nguyễn Ái Quốc từ hành trình ấy đến nay vẫn là “kim chỉ nam” dẫn đường cho đất nước phát triển.
Trước cảnh nước mất, nhà tan, chứng kiến sự bóc lột tàn bạo của thực dân và phong kiến tay sai, nỗi thống khổ của nhân dân lao động, Hồ Chí Minh đã sớm hình thành khát vọng tìm đường giải phóng dân tộc và có tầm nhìn độc lập, sáng tạo so với các bậc tiền bối. Người quyết chí đi ra nước ngoài rồi “sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” trong công cuộc giải phóng, giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lý Việt Quang, Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng cho rằng: với việc tiếp cận tác phẩm Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê Nin đã mang đến cho Hồ Chí Minh con đường cách mạng vô sản, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
PGS.TS Nguyễn Việt Quang cho rằng: “Trước khi Bác Hồ đọc bản luận cương này, Người vẫn còn trăn trở. Người vẫn chưa xác định rõ con đường mà dân tộc Việt Nam sẽ đi là con đường nào. Đọc luận cương của Lê Nin thì Người mới nhận ra được đây là điều mà Người đang tìm kiếm bấy lâu nay. Bởi lẽ Luận cương chỉ ra cho Người rằng con đường dân tộc Việt Nam sẽ đi là con đường giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Năm 1941, kết thúc một hành trình 30 năm tìm đường cứu nước, từ đây Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện sứ mệnh mà lịch sử giao cho mình, đó là đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ đấu tranh giành độc lập. Khi thời cơ đến Người đã lãnh đạo cách mạng tháng Tám thành công, sự kiện làm thay đổi vận mệnh cả dân tộc, thay đổi thân phận của người dân Việt Nam.
Ngay trong những ngày đầu giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện quan điểm nhất quán, đó là Chính phủ phải quan tâm đến đời sống của nhân dân. Người nhấn mạnh phải thực hiện ngay 4 điều: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Chu Đức Tính, nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh cho rằng: “Bác Hồ giải thích rất đơn giản, ngay từ những ngày bây giờ chính quyền năm 1945-1946: không có nhân dân thì Chính phủ không có lực lượng, không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Cho nên chúng ta phải dựa vào dân. Bác dạy cán bộ ta từ lúc hoạch định đường lối chính sách và trong quá trình chỉ đạo thực hiện phải lấy phương châm “Điều gì lợi cho dân ta hết sức làm, điều gì hại cho dân ta phải hết sức tránh”. Vì cuối cùng nhân dân tin vào lãnh đạo hay không, chính là họ được hưởng thụ như thế nào”.
Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: chăm lo đời sống, hạnh phúc của nhân dân là một trong những mục tiêu quan trọng của chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Nhà nước ta hướng tới. Theo Người, chủ nghĩa xã hội không ngừng nâng cao vật chất, tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Giáo sư, Tiến sỹ Mạch Quang Thắng phân tích: “Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm Chủ nghĩa xã hội là một xã hội, trong đó không có chế độ người bóc lột người. Chủ nghĩa xã hội làm cho tất cả mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc. Tức là vừa có cuộc sống vật chất no đủ, vừa có đời sống tinh thần phong phú. Thứ ba, một xã hội chủ nghĩa theo quan niệm Hồ Chí Minh là một xã hội do người dân, đồng bào làm chủ”.
Thực hiện mong muốn của Người, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991 đã khẳng định toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định giá trị là ngọn cờ tư tưởng lý luận, là kim chỉ nam của Đảng dẫn dắt toàn dân tộc tiếp tục vững vàng và đẩy mạnh công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Nhấn mạnh đến mục tiêu "Dân giàu", Phó Giáo sư, Tiến sỹ Bùi Đình Phong, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh bày tỏ, con đường được Đảng lựa chọn để đi, trước hết phải đem lại cho tất cả người dân một cuộc sống ngày càng giàu đẹp hơn: “Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp đấy là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Có thể nói là thành quả rất lớn. Tất nhiên, cũng có thể còn mặt này, mặt khác, chỗ này chỗ khác, ở các mức độ khác nhau chúng ta chưa đạt được như mong muốn, bởi vì chúng ta đang ở trong thời kỳ quá độ. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội là có sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tốt cái xấu, thời kỳ quá độ này là một cuộc đấu tranh lâu dài gian khổ. Cuối cùng, chúng ta phải hướng tới là tiến bộ, phải thắng cái ác và lạc hậu”.
Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chi Minh và Đảng cộng sản Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Mục tiêu và sự lựa chọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính khát vọng của toàn thể nhân dân. Bởi, con đường nào đem lại cho người dân ngày một giàu hơn, cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn thì tất yếu như thế mới có một xã hội phát triển thật sự vì nhân dân./.